So sánh giữa giám đốc thẩm và tái thẩm

Phamlaw – So sánh giữa giám đốc thẩm và tái thẩm vụ án dân sự

Giống nhau:
Đối tượng là những bản án quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế buộc các chủ thể có liên quan phải tuân thủ chấp hành. Và khi phát hiện có sai sót thì bị kháng nghị bởi cơ quan có thẩm quyền.

Chủ thể kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm: Căn cứ theo Điều 331 BLTT Dân sự 2015 

“1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

2. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.”

Chủ thể kháng nghị theo thủ tục tái thẩm: Căn cứ theo Điều 354 BLTT Dân sự 2015 

“1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

2. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.

3. Người đã kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có quyết định tái thẩm.

Hậu quả pháp lý: Khi một bản án hoặc quyết định của Tòa án bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm bởi các chủ thể có thẩm quyền thì bản án, quyết định đó không có giá trị pháp lý đối với các đương sự trong vụ án, các chủ thể có liên quan. Bản án, quyết định cũ của Tòa án trước đó sẽ bị hủy, các đương sự các chủ thể trong vụ án sẽ tuân theo quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm khi bản án được xét lại
Hiệu lực: Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ có hiệu lực ngay khi Hội Đồng giám đốc thẩm, tái thẩm ra quyết định

>>> Tư vấn pháp luật miễn phí
Khác nhau:
Về tính chất:
+ Thủ tục giám đốc thẩm: bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, sự sai sót này có thể xảy ra ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào

+ Thủ tục tái thẩm: là thủ tục xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị khi phát hiện những tình tiết mới, những tình tiết mới này làm thay đổi nội dung cơ bản của bản án, quyết định của Tòa án.

Về căn cứ kháng nghị:
+ Giám đốc thẩm:  Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây. (Căn cứ theo Điều 326 BLTT DS 2015)

– Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;

– Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;

– Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.

Về lý luận, sự khác biệt về tính chất của của các căn cứ kháng nghị là cơ sở chủ yếu cho việc thiết lập hai thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật tương ứng là thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm. Thông thường, những sai lầm, vi phạm pháp luật của Tòa án có nguồn gốc từ chính sự nhận thức, đánh giá không đúng về sự việc hoặc pháp luật do sự ngộ nhận hoặc thiếu cẩn trọng của thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đối với chứng cứ, tài liệu của vụ việc hoặc đối với các quy định của pháp luật về nội dung, về tố tụng dân sự. Ngoài ra, sai lầm về sự việc của Tòa án có thể do yếu tố ngoại cảnh tác động (đương sự hoặc Tòa án không thể biết được) như thiếu những tình tiết, sự kiện cần thiết hoặc các tình tiết, sự kiện mà Tòa án dựa vào đó để giải quyết vụ việc đã bị giả mạo, được kết luận không đúng (Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam).

+ Tái thẩm: Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây (Theo Điều 352 BLTT Dân sự 2015)

1. Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án;

2. Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;

3. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật;

4. Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ.

Xét căn cứ thứ ba của kháng nghị tái thẩm có thể nhận thấy rằng trường hợp “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật”  không được ghi nhận vào một trong các căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm mà vẫn coi đây là căn cứ để kháng nghị tái thẩm. Bởi quy định này nhằm đảo bảo hơn quyền tiếp cận công lý của công dân trong tố tụng dân sự. Trường hợp sai lầm về sự việc của Tòa án do yếu tố ngoại cảnh tác động và trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân cố ý làm sai lệch hồ sơ hoặc cố ý kết luận không đúng mà đương sự đã không thể biết được thì quyền khiếu nại của các đương sự đã không thể biết được về các tình tiết mới, tình tiết bị giả mạo hoặc được kết luận không đúng cần phải xác định từ khi họ biết được về các tình tiết, sự kiện đó thay vì kể từ khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực.

Về thời hạn kháng nghị:
+ Giám đốc thẩm:

“1. Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có quyền kháng nghị trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

2. Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng có các điều kiện sau đây thì thời hạn kháng nghị được kéo dài thêm 02 năm, kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị:

a) Đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật này và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị;

b) Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 326 của Bộ luật này, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của cộng đồng, lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó.”

+ Tái thẩm: 01 năm kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm” (Điều 355 BLTTDS 2015)

Trên đây là những nội dung Quý khách hàng có thể tham khảo để so sánh giữa Giám đốc thẩm và Tái thẩm vụ án Dân sự theo quy định của Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015. Nếu còn vướng mắc hoặc có nội dung muốn trao đổi thêm với các nội dung tương tự: so sánh thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm; phân biệt giám đốc thẩm và tái thẩm; so sánh phúc thẩm và giám đốc thẩm…, Quý khách hàng vui lòng liên hệ đến tổng đài tư vấn pháp luật chuyên sâu của Phamlaw để được tư vấm. Hỗ trợ dịch vụ liên quan đến thủ tục giám đốc thẩm, thủ tục tái thẩm, vui lòng kết nối hotline 24/7 097 393 8866 hoặc số 091 611 0508, chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ.

——————-

Bộ phận tranh tụng – Luật Phamlaw

> Xem thêM:

 

2.5/5 - (10 bình chọn)