Công ty thương mại dịch vụ là gì?

Công ty thương mại dịch vụ là gì?

Hiện nay, khi xã hội ngày càng phát triển và mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế thì ngành thương mại dịch vụ được đánh giá là một trong những lĩnh vực có tốc độ phát triển mạnh và nhiều tiềm năng khai thác. Trong những năm qua mặc dù ngành thương mại dịch vụ là một ngành mới nhưng đã có những bước tiến mang tính đột phá, liên tục tăng dần qua từng năm, khẳng định quá trình tăng tốc mới và có tỷ lệ đóng góp cao, tăng tổng sản phẩm của nước ta lên nhanh chóng. Vậy công ty thương mại dịch vụ là gì? Kính mời quý khách hàng cùng Luật Phamlaw tìm hiểu qua bài viết dưới đây.

Trước hết, thương mại theo Luật Thương mại 2005 được định nghĩa là: hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Luật thương mại quốc tế lại coi hoạt động đầu tư, tín dụng và chuyển giao công nghệ cũng là hoạt động thương mại.

Trong ngành thương mại có ba lĩnh vực chính, đó là thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và thương mại đầu tư, trong đó thương mại dịch vụ là hoạt động mua bán các loại dịch vụ. Trong hoạt động thương mại lại có các loại hoạt động hỗ trợ như xúc tiến thương mại, dịch vụ thương mại. Dịch vụ thương mại là các dịch vụ phục vụ cho việc mua bán hàng hóa và dịch vụ, như marketing chẳng hạn.

Còn dịch vụ được hiểu là toàn bộ các hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người mà sản phẩm của nó tồn tại dưới hình thái phi vật thể, có thể là giáo dục, y tế, văn hóa… thuộc khu vực dịch vụ và được hạch toán trong hệ thống kinh tế quốc dân.

Do chưa có sự thống nhất về khái niệm dịch vụ nên cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về thương mại dịch vụ.

Thứ nhất, từ sự tiếp cận về khái niệm dịch vụ theo nghĩa rộng là một lĩnh vực hoạt động kinh tế, bao gồm toàn bộ những ngành kinh tế nhưng không thuộc các ngành công nghiệp, nông nghiệp ta có thể hiểu thương mại dịch vụ là khái niệm dùng để chỉ những hoạt động thương mại trong lĩnh vực dịch vụ. Ở đây, thuật ngữ “thương mại” không chỉ bao gồm hành vi mua bán mà là bất cứ hành vi nào có mục đích tìm kiếm lợi nhuận.

Thứ hai, nếu hiểu dịch vụ theo nghĩa hẹp là một loại sản phẩm của lao động xã hội thì thương mại dịch vụ là khái niệm dùng để chỉ hành vi “mua bán” các sản phẩm dịch vụ trên thị trường. Khác với thương mại hàng hóa, đối tượng được mua bán trong thương mại dịch vụ là sản phẩm dịch vụ chứ không phải là hàng hóa. Thị trường dịch vụ và giá cả của dịch vụ cũng bị chi phối bởi các quy luật khách quan(quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,…) như đối với thị trường hàng hóa. Sản phẩm dịch vụ không những được trao đổi trên thị trường quốc gia mà còn cả trên thị trường quốc tế.

Như vậy, thương mại dịch vụ là sự trao đổi về dịch vụ giữa các cá nhân, tổ chức với nhau vì mục đích thương mại. Tuy vậy, không phải tất cả các loại dịch vụ đều có thể trao đổi hay mua bán, đặc biệt trong trao đổi quốc tế ví dụ như các dịch vụ của các bà nội trợ, dịch vụ công cộng, dịch vụ thuộc chức năng quản lý Nhà nước, dịch vụ do các đoàn thể và rất nhiều các dịch vụ hỗ trợ khác trong quá trình sản xuất và kinh doanh.

Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), tiền thân của WTO, hầu như chỉ tập trung vào việc xây dựng một môi trường thương mại hay trao đổi bình đẳng về hàng hóa. WTO sớm khắc phục điều đó và mở rộng phạm vi điều chỉnh thương mại trong lĩnh vực dịch vụ. Tuy nhiên, WTO chưa điều chỉnh đến các loại sản phẩm và dịch vụ có mục tiêu phi thương mại. Để khắc phục vấn đề đó, Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (sau đây gọi tắt là GATS) đã liệt kê các loại dịch vụ với việc chia thành 12 ngành lớn (155 phân ngành), bao gồm:

– Các dịch vụ kinh doanh bao gồm dịch vụ chuyên môn và các dịch vụ khác;

– Dịch vụ liên lạc (viễn thông và bưu chính);

– Dịch vụ xây dựng và kỹ thuật;

– Dịch vụ phân phối;

– Dịch vụ giáo dục;

– Dịch vụ môi trường;

– Dịch vụ tài chính ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán);

– Dịch vụ y tế;

– Dịch vụ du lịch và lữ hành;

– Dịch vụ nghỉ ngơi, văn hóa, thể thao;

– Dịch vụ vận tải;

– Dịch vụ khác.

Các dịch vụ khác, là những dịch vụ có thể đã hoặc chưa tồn tại và chưa có giá trị thương mại. Tuy nhiên, khi có giá trị thương mại, thông qua cơ chế các nguyên tắc của mình chắc chắn GATS sẽ điều chỉnh hoạt động kinh doanh các dịch vụ đó.

Thương mại dịch vụ có phạm vi hoạt động rất rộng, từ dịch vụ cho tiêu dùng cá nhân đến dịch vụ sản xuất, kinh doanh, quản lý trong tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân. Nó thu hút đông đảo người tham gia với trình độ cũng rất khác nhau, từ lao động đơn giản như giúp việc gia đình, bán các hàng lưu niệm ở khu du lịch đến lao động chất xám có trình độ cao như các chuyên gia tư vấn, chuyển gia giáo dục…, do đó đây là một lĩnh vực có nhiều cơ hội phát triển và tạo được nhiều công ăn việc làm, rất có ý nghĩa về kinh tế – xã hội ở nước ta hiện nay.

Thương mại dịch vụ hiện nay đang có sự lan tỏa rất lớn, ngoài tác dụng trực tiếp của bản thân dịch vụ, nó còn có vai trò trung gian đối với sản xuất và thương mại hàng hóa, nên phát triển thương mại dịch vụ có ảnh hưởng gián tiếp lên tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân, do đó tác dụng của thương mại dịch vụ là rất lớn. Người ta tính rằng, nếu thương mại dịch vụ được tự do hóa thì lợi ích của nó còn cao hơn thương mại hàng hóa hiện nay và xấp xỉ bằng lợi ích thu được khi tự do hóa thương mại hàng hóa hoàn toàn cho cả hàng hóa nông nghiệp và hàng hóa công nghiệp.

Theo căn cứ khoản 6 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 định nghĩa: “ Công ty bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và công ty hợp danh”. Công ty là một bộ phận nhỏ thuộc doanh nghiệp và theo khoản 10 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”.

Như vậy, công ty thương mại dịch vụ là gì? Nó được hiểu là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật dưới loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần hoặc công ty hợp danh nhằm mục đích kinh doanh các hoạt động có liên quan đến sự trao đổi về dịch vụ giữa các cá nhân, tổ chức với nhau vì mục đích thương mại.

Những đặc điểm cơ bản của thương mại dịch vụ trong công ty thương mại dịch vụ

Thứ nhất, tính chất khó thương mại hóa của hoạt động dịch vụ.

Việc cung cấp dịch vụ có thể coi là bị giới hạn trong điều kiện nhất định vì về cơ bản dịch vụ cần có sự tiếp xúc cần thiết của người tiêu dùng và người cung cấp dịch vụ; Việc cung cấp dịch vụ phải được pháp luật tại nơi diễn ra các hoạt động cung cấp dịch vụ cho phép. Điều kiện như vậy chỉ có thể đạt được tối đa khi hoạt động cung cấp dịch vụ trong phạm vi một quốc gia, một vùng lãnh thổ nơi mà những hạn chế và quy định đối với việc cung cấp dịch vụ là tương đối thuần nhất. Điều này thể hiện rõ nét tính chất khó thương mại hóa của dịch vụ.

Thứ hai, tính đa dạng của các hình thức thương mại dịch vụ.

Khác với thương mại hàng hóa, đối tượng của thương mại là hàng hóa cụ thể được trao đổi và chính sách thương mại là những biện pháp ảnh hưởng đến việc tiếp thị và mua bán hàng hóa đó trên thị trường của một nước. Thương mại dịch vụ hay thương mại các hàng hóa vô hình không được thể hiện một cách đơn giản là sự trao đổi đơn thuần mà là việc trao đổi đó được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. GATS đã đưa ra 4 phương thức cung cấp dịch vụ, theo đó mô tả các khả năng cung cấp của nhà cung cấp dịch vụ:

+ Phương thức 1: Thương mại dịch vụ giữa các nước, tức là mua bán dịch vụ qua biên giới giữa các nước, có thể bằng viễn thông hoặc chuyển dịch vụ bằng hiện vật như bản vẽ, băng đĩa…

+ Phương thức 2 Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài, tức là khách hàng đi sang nước khác để tiêu dùng dịch vụ như đi du lịch, học tập, sửa chữa tàu biển, máy bay ở nước ngoài…

+ Phương thức 3: Hiện diện thương mại, tức là đầu tư trực tiếp để thành lập một chi nhánh, công ty con hay đại lý để cung cấp dịch vụ như cung cấp thông tin, tư vấn pháp luật, ngân hàng cho nước sở tại…

+ Phương thức 4: Hiện diện của thể nhân, tức là sự di chuyển tạm thời của cá nhân sang nước khác để cung cấp các dịch vụ như tư vấn, xây dựng, làm nội trợ, chăm sóc sức khỏe..

Thứ ba, vai trò của công ty độc quyền trong ngành thương mại dịch vụ.

Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, nhiều ngành dịch vụ có mức tập trung tư bản cao, sử dụng công nghệ hiện đại và quy mô lớn. Do vậy, nhiều ngành dịch vụ thực tế đã hình thành độc quyền tự nhiên của nhà nước hoặc chịu sự chi phối của một số doanh nghiệp độc quyền như ngân hàng, viễn thông, hàng không, vận tải biển.

Tại hầu hết các quốc gia, những doanh nghiệp dịch vụ lớn nhất trong những ngành này là do một hoặc một số doanh nghiệp chủ đạo nắm giữ. Tính chất độc quyền trong hoạt động thương mại dịch vụ là cần thiết và khách quan. Sự phát triển của dịch vụ nhờ đó mới có những thành tựu đáng kể trong việc đảm bảo cung ứng dịch vụ một cách rộng rãi, với quy mô và chất lượng ngày một tăng.

Một trong những yêu cầu quan trọng của hoạt động cung ứng dịch vụ là việc đảm bảo một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt cho nền kinh tế, trong đó nhiều loại nhu cầu mang tính chất xã hội mà nhà nước bắt buộc phải thực hiện qua hệ thống độc quyền mới đảm bảo hiệu quả. Ví dụ, việc xây dựng các bến cảng, sân bay, hệ thống viễn thông, trạm xá, bệnh viện đều là những loại dịch vụ cần có sự phân bổ trực tiếp của Nhà nước mà thông thường tính độc quyền mới có thể thực hiện được.

Một ví dụ khác là những nhu cầu dịch vụ đối với các vùng sâu, vùng xa, khó khăn mà lợi ích kinh tế từ hoạt động cung cấp dịch vụ là rất thấp, trong khi đó do yêu cầu về chính sách xã hội, Nhà nước không thể không cung cấp. Điều này chỉ có thể được thực hiện khi Nhà nước phải có sự hoán đổi giữa nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm đó với quyền được cung cấp dịch vụ một cách độc quyền.

Mặc dù vậy, trong nhiều trường hợp khác, độc quyền lại có tác dụng ngược lại tức là sự suy giảm về chất lượng và khả năng trục lợi “tự nhiên” của các doanh nghiệp độc quyền này. Điều đó có nghĩa, tự thân độc quyền trong những ngành dịch vụ không phải là một khái niệm xấu, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ mà vấn đề là việc tạo dựng động lực cạnh tranh và tự hoàn thiện của doanh nghiệp độc quyền đó. Trong xu thế toàn cầu hóa ngày nay, việc thực hiện tự do hóa thương mại dịch vụ bao hàm cả vấn để tạo lập môi trường cạnh tranh trong điều kiện có độc quyền.

Thứ tư, sự can thiệp của Nhà nước thông qua các biện pháp tác động tới khả năng cung cấp và tiêu dùng dịch vụ.

Ở Việt Nam, các dịch vụ như y tế, giáo dục, pháp luật và thậm chí cả dịch vụ tài chính, ngân hàng được coi là một bộ phận trong chiến lược phát triển quốc gia và chỉ được xem xét dưới góc độ an ninh quốc gia với mục tiêu là để duy trì cơ sở hạ tầng cho các hoạt động kinh tế – thương mại khác. Với cách quan niệm này, Chính phủ thường đứng ra tự mình đảm nhận vai trò chủ yếu trong việc cung cấp dịch vụ và do đó, dịch vụ được cung cấp dưới dạng phi thương mại. Vì lẽ đó, người ta đã phân biệt các dịch vụ do Chính phủ cung cấp là phi thương mại với một số dịch vụ có thể có tính thương mại.

Trên đây là bài viết về Công ty thương mại dịch vụ là gì? Nếu bạn còn vướng mắc hoặc muốn được hỗ trợ tư vấn, vui lòng kết nối đến tổng đài tư vấn của chúng tôi. Hỗ trợ dịch vụ qua các đầu số hotline 097 393 8866 hoặc 091 611 0508.

Công ty thương mại dịch vụ là gì – Luật Phamlaw

> Xem thêm:

5/5 - (1 bình chọn)