134/2006/KTPT | |
Tiêu đề | Tranh chấp hợp đồng thi công |
Ngày ban hành | 06/07/2006 |
Cấp xét xử | Phúc thẩm |
Lĩnh vực | Kinh tế |
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TÒA PHÚC THẨM TẠI HÀ NỘI —————— Bản án số: 134/2006/KTPT Ngày 06/7/2006 V/v tranh chấp Hợp đồng thi công | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA PHÚC THẨM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Vũ Thế Đoàn;
Các Thẩm phán: Ông Ngô Anh Dũng;
Bà Trần Thị Xuân.
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Trần Phụng Vương, cán bộ Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà nội.
Ngày 06 tháng 7 năm 2006 tại trụ sở Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 10KT/2006/TLPT ngày 30 tháng 3 năm 2006 về việc tranh chấp hợp đồng thi công theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số1712/2006/KDTM-QĐ ngày 21 tháng 6 năm 2006 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long có trụ sở tại 180 Quang Trung, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng do bà Trần Mai Anh-Giám đốc đại diện; có mặt.
* Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam có trụ sở tại 11/36 đường Nguyễn Viết Xuân, phường Khương Mai, quận Thanh Xuân, Hà Nội do ông Phạm Hồng Khải-Giám đốc đại diện; có mặt.
NHẬN THẤY
Ngày 10/11/2004, Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long (bên A) và Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam (bên B) ký hợp đồng kinh tế số 28/HĐKT. Theo hợp đồng bên B cung cấp vật tư và thi công hoàn thiện hạng mục gồm: trần treo xương chìm, giàn vòm kết cấu thép mica và vòm giàn đèn hoa cho công trình khách sạn.
Bên B sẽ thi công theo bản vẽ thiết kế mẫu ảnh do bên A cung cấp với các vật tư theo mẫu do bên A duyệt kèm theo bảng giá chi tiết cho hợp đồng. Trị giá hợp đồng theo bảng dự toán đã duyệt là 93.671.200 đồng, trừ đi số triết khấu lấy trị giá thực hiện là 90.000.000 đồng, chưa có thuế giá trị gia tăng 10%.
Hợp đồng quy định thời gian thi công bắt đầu từ ngày 12/11/2004 và kết thúc ngày 12/12/2004.
Việc thanh toán theo khối lượng công việc hoàn thành trong biên bản nghiệm thu. Ngay sau khi ký kết hợp đồng bên A đặt cọc 10.000.000 đồng. Sau khi bên B chuyển vòm mica xuống công trình, bên A tạm ứng cho bên B 25.000.000 đồng. Sau khi bên B thi công xong phần thô, bên A trả tiếp 25.000.000 đồng. Phần còn lại sẽ trả trong 2 ngày sau khi có biên bản nghiệm thu 2 bên.
Hai bên cam kết, nếu bên nào không thực hiện hợp đồng sẽ chịu phạt 10% giá trị hợp đồng. Trường hợp có tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng thì Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội sẽ là cơ quan giải quyết tranh chấp.
Ngoài ra, 2 bên còn thỏa thuận miệng về việc bên B cung cấp thiết bị và thi công phòng matxa, xông ướt, xông khô tại khách sạn Thiên Đường của bên A. Bên B đã nhận tạm ứng từ thỏa thuận này là 100.000.000 đồng.
Do bên B vi phạm hợp đồng, chậm tiến độ, không thi công theo đúng mẫu thiết kế nên nay bên A đề nghị Tòa án giải quyết thanh lý hợp đồng giữa 2 bên. Theo đó bên B phải trả lại bên A các khoản tiền sau:
– Tiền tạm ứng thi công 192.000.000 đồng bao gồm 52.000.000 đồng tiền tạm ứng thi công, 100.000.000 đồng tiền tạm ứng công việc ngoài hợp đồng. Tiền bên B vay người nhà bên A là 40.000.000 đồng và xác định đây là quan hệ cá nhân.
– Tiền phạt chậm tiến độ mà bên B đã cam kết trong hợp đồng tính từ ngày 12/12/2004 đến 14/12/2005 là 367.000.000 đồng (1.000.000 đồng/ ngày).
– Về thực hiện hợp đồng, bên B đã thi công đúng hợp đồng và theo mẫu bên A đưa ra đạt 95% khối lượng công việc.
– Về việc thanh toán của bên A, bên B đã được tạm ứng 47.000.000 đồng cho hợp đồng vào các ngày 10/11/2004 là 10.000.000 đồng, ngày 28/11/2004 là 25.000.000 đồng và ngày 19/01/2005 là 12.000.000 đồng.
Ngoài ra, bên B còn nhận tạm ứng của bên A số tiền 100.000.000 đồng để làm công việc ngoài hợp đồng. Trong thời gian thi công bên B còn bên A số tiền 10.000.000 đồng, nay đồng ý tính vào tiền thi công trần.
Bên B công nhận có vay người nhà bên A là anh Hòe số tiền 22.000.000 đồng.
– Bên B không chấp nhận yêu cầu phạt của bên A vì việc chậm tiến độ là do lỗi bên A bàn giao mặt hàng chậm, không có biên bản, chậm ứng tiền, dừng thi công hợp đồng không có lý do, đuổi thợ, không tạm ứng đủ tiền dẫn đến bên B không mua đủ vật tư.
– Nay Bị đơn đồng ý thanh lý hợp đồng, yêu cầu Nguyên đơn trả nốt tiền thi công còn thiếu là 28.500.000 đồng (95% x 90.000.000 đồng – (47.000.000 đồng + 10.000.000 đồng)).
Tại bản án sơ thẩm số15/2006/KDTM-ST ngày 23/02/2006, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã áp dụng khoản 1, 2 Điều 422 Bộ luật dân sự; các Điều 29, 35, 36, 130, 159, 243 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 107 Luật Xây dựng, tuyên xử:
1. Hợp đồng kinh tế số 28/HĐKT ký ngày 10/11/2004 giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long và Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam được thanh lý kể từ ngày 23/02/2006.
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam đã thi công xong khối lượng công việc có trị giá 52.767.000 đồng, Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long có trách nhiệm thanh toán trả Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam số tiền này.
Xác nhận Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long đã tạm ứng cho Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam.
Đối trừ khối lượng đã thi công, Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam phải hoàn trả Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long số tiền tạm ứng còn thừa là 4.233.000 đồng.
3. Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam phải trả Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long khoản tiền phạt do chậm tiến độ thi công là 185.153.000 đồng.
4. Xác định giao dịch giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long và Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam về việc cúng cấp thiết bị và thi công phòng mátxa, xông ưởt, xông khô tại khách sạn Thiên Đường của Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long là giao dịch vô hiệu.
Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam phải hoàn trả Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long số tiền đã nhận là 100.000.000 đồng.
5. Tổng cộng các khoản Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam phải trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long là 289.386.000 đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.
– Ngày 7/3/2006, bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam kháng cáo đề nghị xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm.
– Ngày 8/3/2006, nguyên đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long kháng cáo với nội dung đề nghị xem xét kết luận giám định của Hội đồng định giá Hải Phòng; xem xét khoản tiền phạt theo thỏa thuận; xem xét phần làm tầng 5 và nhà hàng; xem xét khoản lãi ngân hàng để bảo vệ quyền lợi cho công ty.
XÉT THẤY:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Tại phiên tòa phúc thẩm bà Trần Mai Anh rút yêu cầu kháng cáo về việc kết luận thẩm định giá quá cao so với thực tế; giữ nguyên yêu cầu phạt 1.000.000 đồng/ngày do chậm tiến độ theo thỏa thuận của hai bên; đề nghị không tính tiền phần làm trần tầng 5 và không cộng phần thuế giá trị gia tăng vì hợp đồng không thỏa thuận.
Còn ông Phạm Hồng Khải đề nghị tính tiền phần trần tầng 5 đã thi công; đề nghị xem lại khoản tiền phạt và không phải hoàn trả 100.000.000 đồng vì đã thi công xong.
Xem xét các yêu cầu kháng cáo của các bên đương sự thấy rằng:
1. Sau khi xét xử sơ thẩm Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long (Hải Phòng) không đồng ý với kết luận của Trung tâm tư vấn thẩm định giá và tài sản thuộc sở tài chính thành phố Hải Phòng vì giá quá cao so với thực tế.
Song, sau khi được thông báo kết quả thẩm định giá của Trung râm tư vấn thẩm định giá và tài sản cũng như tại phiên toàn sơ thẩm bà Trần Mai Anh-Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long đều không có ý kiến gì về việc thẩm định giá. Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam (Hà Nội) cũng không có ý kiến gì về việc này.
Hiện tại, Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long đã thuê người khác hoàn thiện công trình mà phía Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam chưa làm xong. Do vậy, bà Trần Mai Anh đã tự nguyện rút yêu cầu kháng cáo về phần này, nên cần chấp nhận không xem xét lại theo trình tự phúc thẩm.
2. Đối với yêu cầu xem xét lại khoản tiền phạt 1.000.000 đồng/ngày theo thỏa thuận trong hợp đồng.
Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ và kết quả thẩm tra chứng cứ đủ cơ sở xác định: ông Phạm Hồng Khải trực tiếp viết bổ sung vào bản hợp đồng về việc phạt do chậm tiến độ và bàn giao công trình… cùng ngày 10/11/2004 là ngày 2 bên ký kết hợp đồng; các bên đương sự đếu xác nhận có việc thỏa thuận này. Xét việc thỏa thuận đó của các bên là tự nguyện, nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây là phần bổ sung là có căn cứ.
Tuy nhiên, xét hợp đồng kinh tế được ký kết, thi công, chấm dứt không thực hiện đúng các điều khoản cam kết trong hợp đồng cũng như việc phát sinh tranh chấp đều diễn ra tại thời điểm trước khi Bộ luật dân sự có hiệu lực pháp luật (ngày 01/01/2006). Do vậy, thỏa thuận của các đương sự phạt 1.000.000 đồng/ngày nếu bên B chậm tiến độ thi công và bàn giao công trình là trái với các quy định của pháp luật nên không được chấp nhận. Vì thế, việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 422 Bộ luật Dân sự 2005 và buộc bên B phải chịu phạt 47,20% mức phạt 1.000.000 đồng/ngày tương ứng với giá trị công trình chưa thực hiện là chưa chính xác, không có căn cứ pháp luật; nên không có cơ sở pháp luật để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Nguyên đơn phạt Bị đơn 1.000.000 đồng/ngày như đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Tại phiên tòa hôm nay, Bị đơn vẫn cho rằng lỗi không thực hiện được hợp đồng là do Nguyên đơn gây ra. Song, tại phiên tòa Bị đơn không đưa ra được chứng cứ, tài liệu gì để chứng minh việc thi công chậm tiền độ, cũng như việc dừng thực hiện hợp đồng là do lỗi của Nguyên đơn.
Quá trình giải quyết vụ kiện Bị đơn có xuất trình các biên bản tạm dừng thi công đề ngày 25/11/2004 và 25/01/2005 để cho rằng Nguyên đơn có lỗi dẫn tới việc không thực hiện hợp đồng.
Xét hai văn bản nêu trên, là do Bị đơn tự lập với bên thi công của Bị đơn, không có ai chứng kiến, không phù hợp với các khoản tiền mà Bị đơn đã tạm ứng ngày (10/11/2004, 27/11/2004 và ngày 19/1/2005) cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận lý do mà Bị đơn đưa ra là đúng. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận tiến độ thi công, không bàn giao được công trình là do lỗi của Bị đơn; rõ ràng Bị đơn đã vi phạm thời hạn thực hiện hợp đồng.
Thực tế, Bị đơn đã thực hiện một phần hợp đồng nên có căn cứ áp dụng điểm b khoản 2 Điều 13 Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng để xác định mức phạt đối với Bị đơn. Điểm b khoản 2 Điều 13 Nghị định số 17/HĐBT nêu trên quy định: “Vi phạm thời hạn thực hiện hợp đồng phạt 2% giá trị phần hợp đồng kinh tế bị vi phạm thời hạn thực hiện cho 10 ngày lịch đầu tiền; phạt thêm từ 0,5% đến 1% cho mỗi đợt 10 ngày tiếp theo cho đến mức tổng số các lần phạt không quá 8% giá trị hợp đồng kinh tế bị vi phạm ở thời điểm 10 ngày lịch đầu tiên”.
Căn cứ vào kết quả thẩm định giá, biên bản xem xét hiện trạng và ý chí của Nguyên đơn đồng ý thanh toán cho Bị đơn phần công trình đã thi công xong hoặc phần còn sử dụng được; Hội đồng xét xử xác định Bị đơn đã thi công hoàn thành một phần công việc và có những phần đã thi công nhưng không đạt chất lượng như hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Do vậy, bị đơn chỉ được chấp nhận thanh toán những phần thi công đúng hợp đồng, hoặc còn sử dụng được mà Nguyên đơn cũng chấp nhận.
Căn cứ vào chứng thư thẩm định giá, hợp đồng đã ký kết và yêu cầu kháng cáo không tính 10% thuế giá trị gia tăng vào phần đã làm dược chấp nhận thanh toán; Hội đồng xét xử xác định lại trị giá phần kết quả thi công của Bị đơn như sau:
2.1. Về 02 phòng Karaoke: Hai phòng này Bị đơn thi công theo mẫu tại một đơn vị khác mà hai bên đã cùng nhau đến xem, không có ảnh. Theo biên bản xem xét hiện trạng và chứng từ thẩm định thì 2 phần việc này Bị đơn đã thi công xong, được chấp nhận thanh toán là: 8.578.940 đồng.
2.2. Về việc thi công nhà hàng tầng 1 có 05 vòm giãn đèn gồm 01 vòm lớn cho sân khấu và 04 vòm nhỏ:
-Việc thi công 04 vòm nhỏ: Nguyên đơn công nhận Bị đơn đã làm xong khung sắt, mẫu hoa văn thạch cao và hoa sắt trang trí, nhưng chưa lắp hết mica, như đã được phản ánh trong biên bản xem xét hiện trạng ngày 06/10/2005. Tại các phiên tòa Nguyên đơn đồng ý thanh toán cho Bị đơn trị giá phần thi công đã được tính toán trong chứng thư thẩm định giá ngày 20/12/2005, nên phần này Bị đơn được thanh toán là : 9.891.000 đồng.
– Đối với vòm lớn trùm sân khấu: Mặc dù, Bị đơn trình bày đã làm đúng ảnh mẫu và nại rằng theo ảnh mẫu thì đây là ½ vòm tròn và lưới trang trí là lưới mắt cáo. Nhưng qua thẩm định là lưới B40 và có sự chắp vá. Hơn nữa ½ vòm là không đúng với báo giá và dự toán khối lượng kèm theo hợp đồng đã ký.
Do đó, giá trị phần thi công lưới nêu trên của Bị đơn không được chấp nhận để thanh toán; chỉ được thanh toán phần kết cấu sắt thép trị giá 1.281.950 đồng và 389.170 đồng. Cộng hai khoản là 1.671.120 đồng.
– Về trần nhà hàng: theo biên bản xem xét hiện trạng thì Bị đơn đã làm xong các tấm phào trang trí cho cả 05 ô vòm và các phần trần xung quanh. Riêng phần trần ở khu vực sân khấu, ao vòm không đúng thiết kế và đang thi công dở, nên phần trần khu vực này chưa làm xong.
Bị đơn nại rằng do Nguyên đơn yêu cầu thay đổi thiết kế phần này; Nhưng không chứng minh được việc bên A yêu cầu thay đổi thiết kế.
Do vậy, Bị đơn chỉ được chấp nhận đã đóng xong dầm, trần thạch cao cho 04 ô có vòm nhỏ. Còn ô lớn có vòm lớn tại khu vực sân khấu không được chấp nhận để thanh toán.
Cụ thể phần này được thanh toán các khoản sau: trị giá phần đóng dầm trần là 16.260.000 đồng cho cả 05 ô vòm và 22.704.000 đồng trị giá phần đóng trần thạch cao. Cộng hai khoản là 38.964.000 đồng. Song phải trừ đi phần công việc , vật tư chưa làm có trong đơn giá (Trần mica, đèn trùm) là 7.978.200 đồng; chỉ được thanh toán phần này là 30.985.800 đồng.
Tổng cộng các phần Bị đơn đã thi công được chấp nhận thanh toán là 51.126.860 đồng.
Như vậy, số tiền Bị đơn vi phạm hợp đồng được xác định trị giá 38.873.140 đồng.
Bị đơn vi phạm thời hạn thực hiện hợp đồng trong một thời gian dài. Do vậy, cần áp dụng mức phạt cao nhất 8% theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 13 Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng.
Cụ thể: giá trị phần hợp đồng kinh tế bị vi phạm ở thời điềm 10 ngày lịch đầu tiên là 38.873.140 đồng và bị phạt 8% bằng: 3.109.851 đồng.
2.3. Đối với việc thi công trần phòng tầng 5:
Phần này Nguyên đơn xác nhận: thiết kế trần phòng này do Bị đơn cung cấp mẫu trong Catalog của Bị đơn, được Nguyên đơn đồng ý. Theo mẫu này trần có giật hai cấp và lắp mica màu trắng ở giữa; hai bên có khoét lỗ đèn âm trần.
Song tại biên bản xem xét hiện trạng mà Bị đơn có tham gia kiểm tra xem xét thì trần được lắp bằng mica màu xanh đã vỡ, không có lỗ để lắp đèn âm trần và trần đã có hiện tượng nứt. Tại phiên tòa sơ thẩm, Bị đơn cũng phải thừa nhận việc thi công không đúng mẫu. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận phần thi công này trị giá 11.622.100 đồng là có căn cứ. Vì vậy, có căn cứ chấp nhận kháng cáo của Nguyên đơn và không chấp nhận kháng cáo của Bị đơn đối với số tiền cụ thể này.
3. Đối với yêu cầu không đồng ý hoàn trả Nguyên đơn 100.000.000 đồng đã nhận của Bị đơn:
Quá trình giải quyết vụ kiện Bị đơn đều công nhận có nhận của Nguyên đơn số tiền: 100.000.000 đồng (ngày 14/12 và 22/12/2004. mỗi lần 50.000.000 đồng) để mua thiết bị và thi công trong thời hạn từ 22/12/2004 đến ngày 20/01/2005 tại công trình khách sạn Thiên Đường của Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long. Nhưng hai bên chưa ký hợp đòng hoàn chỉnh.
Xét thấy đây là một quan hệ kinh doanh thương mại về việc thi công công trình. Do đó, theo quy định tại Điều 170 Luật Xây dựng thì hợp đồng trong hoạt động xây dựng được lập thành văn bản phù hợp với Luật Xây dựng và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Do đó, việc các bên chỉ thỏa thuận với nhau trên cơ sở các giấy biên nhận, không lập thành văn bản theo yêu cầu của pháp luật là không đúng.
Do vậy, các bên phải trở lại tình trạng ban đầu. Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam phải hoàn trả Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long 100.000.000 đồng và nhận lại số vật tư đã gửi tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long.
Nên không chấp nhận kháng cáo của Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam đối với khoản tiền này.
4. Về việc thanh lý hợp đồng:
Đối với yêu cầu không tính 10% thuế giá trị gia tăng vào phần tính giá trị thi công được chấp nhận để thanh toán theo yêu cầu của Nguyên đơn là có cơ sở để chấp nhận như Hội đồng xét xử đã xem xét ở phần trên. Bởi lẽ, Hợp đồng cũng như chứng thư thẩm định giá đều chưa cộng thêm 10% thuế giá trị gia tăng.
Tuy nhiên, khi xem xét để thanh lý hợp đồng thì phải tính thêm 10% giá trị thuế giá trị gia tăng để đối trừ cho Bị đơn số tiền đã tạm ứng của Nguyên đơn. Bởi lẽ, 10% thuế giá trị gia tăng này bên Nguyên đơn vẫn phải thanh toán cho Bị đơn theo quy định của pháp luật về thuế hiện hành.
Căn cứ vào các giấy biên nhận tạm ứng tiền để thi công các phần việc làm trần, phào là: 47.000.000 đồng; cộng với 10.000.000 đồng ông Khải vay được xác định đối trừ vào tiền thi công, thì Nguyên đơn đã tạm ứng cho Bị đơn tổng cộng là 57.000.000 đồng.
Đối trừ số tiền giá trị phần Bị đơn đã thi công được chấp nhận thanh toán là 51.126.860 đồng và 10% thuế giá trị gia tăng của số tiền này là 5.112.686 đồng; Bị đơn phải trả lại cho Nguyên đơn số tiền tạm ứng thừa là: 57.000.000 đồng – 56.239.546 đồng = 760.454 đồng.
Như vậy, công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam phải có trách nhiệm thanh toán trả Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long tiền thi công ứng thừa: 760.454 đồng; tiền phạt do vi phạm thời hạn hợp đồng 3.109.851 đồng; cộng với 100.000.000 đống ứng thi công hạng mục khác ngoài hợp đồng. Tổng cộng ba khoản phải trả là: 103.870.305 đồng.
Do vậy, chỉ có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo của các bên đương sự.
Các yêu cầu khác mà đương sự trình bày tại phiên tòa không thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng xét xử nên không xem xét.
Các bên đương sự không phải chịu án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm.
Bị đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ khoản 1, 2 Điều 275; khoản 1 Điều 276; các Điều 29; Điều 35, 36, 130, 159 và 243 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 136 Bộ luật dân sự 1995; Điều 107 Luật Xây dựng;
QUYẾT ĐỊNH:
1- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 13 Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng sửa một phần bản án sơ thẩm về khoản tiền phạt do vi phạm thời hạn hợp đồng:
– Xác nhận Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam đã thi công xong khối lượng công việc có trị giá là: 51.126.860 đồng (Năm mươi mốt triệu một trăm hai mươi sáu ngàn tám trăm sáu mươi đồng).
Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim long có trách nhiệm trả Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam số tiền này.
– Xác nhận Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long đã tạm ứng cho Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam 57.000.000 đồng (Năm mươi bảy triệu đồng).
– Đối trừ khối lượng thi công được thanh toán và 10% thuế giá trị gia tăng, Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam phải hoàn trả công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long số tiền tạm ứng thừa là: 760.454 đồng (Bảy trăm sáu mươi nghìn bốn trăm năm mươi tư đồng).
2. Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam phải hoàn trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long số tiền phạt vi phạm thời hạn thực hiện hợp đồng là: 3.109.851 đồng (Ba triệu một trăm linh chín nghìn tám trăm năm mươi mốt đồng).
3. Xác định giao dịch giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long và Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam về việc cung cấp thiết bị và thi công phòng matxa, xông ướt, xông khô tại khách sạn Thiên Đường của Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long là giao dịch vô hiệu.
Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam phải trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long số tiền đã nhận là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng).
4. Tổng cộng các khoản tiền Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng và thương mại Thành Nam phải trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Kim Long là 103.870.305 đồng (Một trăm linh ba triệu tám trăm bảy mươi ngàn ba trăm linh năm đồng).
5. Bác các yêu cầu khác của các đương sự.
6. Các bên đương sự không phải nộp án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm.
– Bị đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm 5.559.738 đồng.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
CÁC THẨM PHÁN
Ngô Anh Dũng Trần Thị Xuân
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Thế Đoàn