Tranh chấp hợp đồng thỏa thuận hợp tác thành lập Công ty cổ phần Đầu tư Thẩm Mỹ Xuân Trường (sơ thẩm)

Số hiệu…/2007/KDTM-ST
Tiêu đềTranh chấp hợp đồng thỏa thuận hợp tác thành lập Công ty cổ phần Đầu tư Thẩm Mỹ Xuân Trường
Ngày ban hành18/10/2007
Cấp xét sửSơ thẩm
Lĩnh vựcKinh tế

Việc hoạt động kinh doanh của Công ty CP Đầu tư Thẩm Mỹ Xuân Trường đã không thực hiện việc kê khai trung thực, không chính xác về nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh theo quy định hiện hành là vi phạm các quy định về Luật Doanh nhiệp năm 2005.

Có cơ sở để xác định hợp đồng hợp tác  bị vô hiệu toàn bộ do bị nhầm lẫn ngay từ thời điểm xác lập vì nguyên đơn đã cố ý làm cho bị đơn nhầm lẫn về nội dung giao dịch

Bản án số2007/KDTM-ST ngày 18/10/2007

V/v tranh chấp giữa thành viên Công ty về hợp đồng góp vốn

Trong ngày 18 tháng 10 năm 2007 tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số702/2006/TLST-KDTM ngày 16 tháng 10 năm 2006 tranh chấp giữa “ Thành viên của công ty về hợp đồng góp vốn “ theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1800/2007 /QĐST – KDTM ngày 01 tháng 10 năm 2007 giữa các đương sự

Nguyên đơn : Ông Đỗ Xuân Trường

Bị đơn : Bà Phạm thị Kiều Thu

Ngừơi có quyền và nghĩa vụ liên quan :

Bà Mạch Kim Liên – sinh 1985.

Bà Mạch Kim Lan – sinh 1986.

Bà Đỗ thị Hồng Loan – sinh 1983

NHẬN THẤY

Trong đơn khởi kiện ngày 19 tháng 07 năm 2006 của nguyên đơn là ông Đỗ Xuân Trường và các lời trình bày tiếp theo của ông Nguyễn văn Sãi – đại diện uỷ quyền trong phiên hoà giải và tại phiên Toà thì vào ngày 21/4/2006 giữa ông Trường và bị đơn là bà Phạm thị Kiều Thu có ký hợp đồng thỏa thuận hợp tác thành lập Công ty cổ phần Đầu tư Thẩm Mỹ Xuân Trường, địa chỉ tại số 139 AB Nguyễn Trãi, Quận 1 TP.Hồ chí Minh, với các điều khoản như sau : bị đơn góp vốn bằng căn nhà số 139AB Nguyễn Trãi, Quận 1 TP.HCM còn nguyên đơn góp bằng tiền sửa chữa mặt bằng, đầu tư trang thiết bị và đầu tư thành lập Công ty. Sau khi hoàn tất thủ tụcthành lập Công ty gồm có 5 thành viên là bà Phạm thị Kiều Thu, ông Đỗ Xuân Trường, bà Mạch Kim Liên, bà Mạch Kim Lan và bà Đỗ thị Hồng Loan. Công ty đã đi vào hoạt động được khoảng 2 tháng thì vào đầu tháng 7/2006 bị đơn tự ý đóng cửa Công ty, ngưng hợp đồng với nguyên đơn trước thời hạn, tự ý cất giấu toàn bộ hồ sơ giấy phép, dấu mộc của Công ty và khoá cửa không cho nhân viên của nguyên đơn vào làm việc. Nay do bị đơn vi phạm hợp đồng gây thiệt hại đến quyền lợi của nguyên đơn, vì vậy yêu cầu bị đơn phải bồi thường ngay các thiệt hại phát sinh gồm tiền phạt đã thỏa thuận tại điều 6 của hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày 21/4/2006 là 800.000.000 đồng tương đương với 50.000 USD và trả lại bằng tiền là 404.788.960 đồng, đây là trị giá toàn bộ trang thiết bị mà Công ty đã đầu tư trong thời gian hoạt động gồm các khoản như sau :

+ Sơn sửa nhà : 91.481.000 đồng

+ Lắp đặt nhôm và kiếng : 8.273.000 đồng

+ Lắp đặt hệ thống âm thanh : 15.000.000 đồng

+ Mua bình chữa cháy : 3.860.000 đồng

+ Sửa chữa đồ gỗ và đóng mới tủ mỹ phẩm : 25.000.000 đồng

+ 07 bàn kiếng chân sắt : 4.760.000 đồng

+ Mua ghế đôn thường :1.350.000 đồng

+ 03 bộ máy lạnh hiệu Reetech RT/RC18G5E(2.0HP): 35.580.000 đồng

+ Chi phí quảng cáo trên các báo : 19.924.000 đồng

+ Mua hoa trang trí : 6.900.000 đồng

+ Mỹ phẩm các loại : 192.660.960 đồng.

Tại văn bản tự khai ngày 20/11/2006 của bị đơn bà Phạm thị Kiều Thu và các lời trình bày tiếp theo trong phiên hoà giải và tại phiên Tòa của ông Đoàn Thanh Tâm – là đại diện uỷ quyền xác nhận bị đơn có ký hợp đồng hợp tác kinh doanh như nguyên đơn trình bày, lúc ký hợp đồng này là do tin tưởng nguyên đơn có bằng cấp chuyên môn về phẫu thuật thẩm mỹ nên mới hợp tác kinh doanh, đến khi nhận được giấy phép thấy không được cấp phép kinh doanh ngành nghề này bị đơn đã hỏi và nguyên đơn hứa sẽ bổ sung ngành nghề này sau, tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, do có số khách hàng có đơn khiếu nại về chất lượng thực hiện các ca phẫu thuật do nguyên đơn thực hiện thì nguyên đơn thừa nhận không có bằng cấp chuyên môn lĩnh vực này và đề nghị sẽ thuê bằng của bác sĩ có chuyên môn để tiếp tục hoạt động kinh doanh, bị đơn không chấp nhận vì đây là hành vi kinh doanh trái phép, nguyên đơn đã lừa dối bị đơn khi giao dịch hợp tác kinh doanh với nhau, do đó, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại cũng như yêu cầu đòi bồi thường tiền sửa chữa mặt bằng của nguyên đơn vì đây là giao dịch vô hiệu và trước khi hai bên kinh doanh bị đơn sửa chữa nhà trên, nguyên đơn không sửa chữa gì. Ngoài ra, ngày 12/7/2006 hai bên đã liệt kê tài sản của Công ty, ngày 28/9/2006 lập biên bản thanh lý tài sản và ngày 29/9/2006 nguyên đơn đã đem đi các tài sản của mình, đồng thời còn lấy đi các tài sản khác của bị đơn có tổng giá trị là 113.730.000 đồng, nay yêu cầu nguyên đơn giao trả lại ngay gồm các tài sản như sau:

+ 01 máy giặt : 3.200.000 đồng.

+ Bếp ga, bình ga, kệ : 1.400.000 đồng

+ 12 gường (400 x12) : 4.800.000 đồng

+ 01 nồi cơm điện : 500.000 đồng

+ 01 tủ lạnh : 2.500.000 đồng

+ Cân bàn, 01 ổn áp : 1.000.000 đồng

+ 01 bàn kiếng tiếp tân, 01 bàn kiếng nhỏ : 8.500.000 đồng

+ 08 bộ màn cửa lớn, nhỏ : 1.000.000 đồng

+ 01 bao đựng quần áo nhân viên : 5.000.000 đồng

+ 01 cây lau nhà :100.000 đồng

+ 04 hộp đèn cầy : 50.000 đồng

+ 02 ghế massage : 380.000 đồng

+ 14 mền xanh : 1.400.000 đồng

+ 01 máy vi tính : 5.000.000 đồng

+ 01 máy in : 3.000.000 đồng

+ 01 đầu đĩa : 1.000.000 đồng

+ 06 chậu thuỷ tinh : 600.000 đồng

+ 01 tủ đựng hồ sơ : 2.500.000 đồng

+ 01 tủ đựng đồ khách : 3.000.000 đồng

+ 01 qủa địa cầu : 500.000 đồng

+ 01 bồn để cá : 2.000.000 đồng

+ 04 kệ để dép : 300.000 đồng

+ 09 bộ máy lạnh : 65.000.000 đồng.

Về yêu cầu của nguyên đơn đòi lại tài sản bị đơn không chấp nhận mặc dù bị đơn đang quản lý số tài sản gồm gường, nệm, grap, gối, tủ mỹ phẩm, máy tính xách tay hiệu Dell, két sắt, bàn kiếng, ghế nhưng tất cả tài sản này là của bị đơn. Ngoài ra, tại phiên Toà, bị đơn không yêu cầu nguyên đơn bồi thường do mất thu nhập từ việc hợp tác kinh doanh với nguyên đơn từ tháng 4/2006 đến tháng 7/2006 là 200.000.000 đồng.

Tại văn bản tự khai ngày 20/11/2006 của người có quyền và nghĩa vụ liên quan gồm bà Mạch kim Liên và bà Mạch kim Lan có ông Đòan Thanh Tâm – đại diện uỷ quyền trình bày : Bà Liên và bà Lan là đồng sở hữu căn nhà 139 AB Nguyễn Trãi Quận 1 và là thành viên của Công ty CP Đầu tư thẩm mỹ Xuân Trường, tuy nhiên, hai bà này không góp vốn cùng kinh doanh. Về hợp đồng hợp tác giữa nguyên đơn và bị đơn hai bà này không rõ chỉ biết nguyên đơn chịu trách nhiệm về chuyên môn phẫu thuật thẩm mỹ nên hai bà cùng ký tên vào hợp đồng hợp tác ngày 21/4/2006. Quá trình thực hiện hợp đồng trên, hai bà thống nhất như lời trình bày của bị đơn và đề nghị Tòa không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Tại văn bản tự khai ngày 05/12/2006 của người có quyền và nghĩa vụ liên quan là bà Đỗ thị Hồng Loan xác nhận về hình thức bà là thành viên Công ty, thực tế không góp vốn và không rõ về hoạt động kinh doanh của Công ty. Nay đồng ý theo các ý kiến trình bày của nguyên đơn trong vụ án này và cho rằng hợp đồng hợp tác giữa hai bên không có sự lừa dối vì phía bị đơn lo thủ tục đăng ký kinh doanh cho Công ty.

XÉT THẤY

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa và căn cứ vào kết qủa hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định :

Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết : Xét quan hệ tranh chấp phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn là tranh chấp giữa các thành viên của Công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động và giải thể công ty và Công ty CP đầu tư thẩm mỹ Xuân Trường có trụ sở tại TP.Hồ Chí Minh. Vì vậy căn cứ vào Khoản 3, Điều 29 và Khoản 1 Điều 34 Bộ luật tố tụng Dân sự quy định Tòa Kinh Tế TAND TP. Hồ Chí Minh giải quyết vụ án này theo thủ tục sơ thẩm.

Về thời hiệu khởi kiện : Xét, trong quá trình hoạt động của Công ty do có tranh chấp phát sinh nên ngày 19/07/2006 ông Đỗ Xuân Trường đã làm đơn khởi kiện, vì vậy, căn cứ vào điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự thì đơn khởi kiện của ông Đỗ Xuân Trường nằm trong thời hiệu khởi kiện nên được chấp nhận để xem xét.

Về yêu cầu tranh chấp của nguyên đơn về việc đòi bị đơn bồi thường thiệt hại do bị đơn vi phạm hợp đồng hợp tác kinh doanh là 800.000.000 đồng tương đương 50.000 USD và hoàn trả bằng tiền Việt Nam giá trị của các trang thiết bị đầu tư là 404.788.960 đồng. Tổng cộng là 1.204.788.960 đồng.HĐXX nhận định như sau :

Căn cứ vào giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do Sở kế hoạch và đầu tư TP.Hồ Chí Minh cấp cho Công ty CP Đầu tư Thẩm mỹ Xuân Trường, số 4103004726 đăng ký lần đầu ngày10/05/2006, trong đó ghi danh sách cổ đông sáng lập gồm bà Phạm thị Kiều Thu có số cổ phần là 5.000 ; ông Đỗ Xuân Trường là 2.000 cổ phần, còn lại các bà Mạch kim Lan, Mạch kim Liên và Đỗ thị Hồng Loan mỗi người có 1.000 cổ phần ; ông Trường là Giám đốc và là người đại diện theo pháp luật của Công ty ; địa chỉ trụ sở chính tại 139A-139B Nguyễn Trãi, Phường Bến Thành, Quận 1 với ngành, nghề kinh doanh gồm mua bán mỹ phẩm, trang thiết bị y tế, dụng cụ thẩm mỹ. Y : ngoại tổng quát. Đào tạo nghề. Xét, các bên đã xác nhận việc ghi tên và phần góp vốn của các bà Liên, Lan và Loan vào giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là nhằm hợp thức hoá thủ tục thành lập Công ty, thực tế toàn bộ vốn góp là do ông Trường và bà Thu bỏ ra, việc này còn được xác nhận trong hợp đồng thỏa thuận hợp tác ngày 21/4/2006, trong đó, thể hiện phần góp vốn của bà Thu bằng căn nhà số 139 AB Nguyễn Trãi, Q. 1 TP.HCM ; ông Trường góp vốn bằng tiền sửa chữa mặt bằng, đầu tư trang thiết bị, đầu tư thành lập công ty ; các thành viên khác không góp vốn (không có quyền sở hữu tài sản công ty và không được phân chia lợi nhuận). Đồng thời, chia lợi nhuận sau khi trừ chi phí hoạt động, được chia đều 50% cho bà Thu và ông Trường. Như vậy, việc hoạt động kinh doanh của Công ty CP Đầu tư Thẩm Mỹ Xuân Trường đã không thực hiện việc kê khai trung thực, không chính xác về nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh theo quy định hiện hành là vi phạm các quy định về Luật Doanh nhiệp năm 2005.

Xét, tại điều 6 của hợp đồng hợp tác ngày 21/4/2006 đã nêu ‘’ Trường hợp ông Trường tự ý ngưng hợp đồng trước thời hạn thì toàn bộ trang thiết bị đã đầu tư sẽ thuộc quyền sở hữu của bà Thu kèm 50.000 USD tiền mặt.Trường hợp bà Thu tự ý ngưng hợp đồng trước thời hạn thì toàn bộ trang thiết bị đã đầu tư sẽ thuộc quyền sở hữu của ông Đỗ Xuân Trường kèm 50.000 USD tiền mặt. ‘’. Căn cứ vào điều khoản này phía nguyên đơn cho rằng do bị đơn tự ý ngưng hợp đồng trước thời hạn nên phải bồi thường cho nguyên đơn. Còn phía bị đơn nại ra rằng do nguyên đơn lừa dối bị đơn từ trước khi ký hợp dồng vì cho rằng bản thân nguyên đơn là bác sĩ chuyên giải phẫu thẩm mỹ có tay nghề cao có nhiều khách hàng và đã đưa bị đơn đến nơi đang hành nghề là Trung tâm chăm sóc sắc đẹp tại số 55 Trương Định Quận 1 TP.Hồ Chí Minh , vì vậy, khi ký hợp đồng đã thỏa thuận nguyên đơn chịu trách nhiệm về chuyên môn phẫu thuật, tuy nhiên, khi có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì không được phép hành nghề giải phẫu thẩm mỹ, do đó, ngày 12/7/2006 các thành viên trong Công ty đã thống nhất tạm ngưng hoạt động kinh doanh vì nguyên đơn vẫn chưa có bằng cấp theo yêu cầu, tuy nhiên, ông Trường và bà Loan không đồng ý ký vào biên bản họp này, do đó, không đồng ý bồi thường thiệt hại trên cho nguyên đơn.

Xét, đại diện nguyên đơn thừa nhận trước khi hợp tác kinh doanh với bị đơn ông Trường đã hoạt động hành nghề phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ tại Trung tâm chăm sóc sắc đẹp Xuân Phương ở số 55 Trương Định Quận 1 TP.Hồ chí Minh và khi thực hiện việc hành nghề này nguyên đơn chưa được cấp chứng chỉ hành nghề nêu trên, việc này được thể hiện trong Công văn số 78 ngày 29/82006 của Thanh tra Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh có nội dung thể hiện ông Trường hành nghề không có bằng cấp hoặc chứng chỉ chuyên môn phù hợp nên đã bị phạt theo quy định, như vậy, việc bị đơn cho rằng đã bị lừa dối khi ký hợp đồng hợp tác là có cơ sở, bởi lẽ, tại điều 3 trong hợp đồng ghi rõ ông Đỗ Xuân Trường chịu trách nhiệm về chuyên môn phẫu thuật. Tại phiên Toà ý kiến của đại diện nguyên đơn nại ra rằng hai bên thỏa thuận trong hợp đồng ông Trường chịu trách nhiệm chuyên môn phẩu thuật, tuyển nhân sự có nghĩa là ông Trường không phải là người trực tiếp phẫu thuật mà sẽ tuyển người có bằng cấp hành nghề này, xét ý kiến này là không thể chấp nhận, bởi lẽ, trong các nội dung quảng cáo về hoạt động kinh doanh của Công ty CP Đầu tư Thẩm mỹ Xuân Trường đã thể hiện ông Trường phụ trách khâu phẫu thuật thẩm mỹ, tạo hình.. và Công ty cũng không có người nào khác thực hiện chuyên môn này, do đó, căn cứ theo điều 131 Bộ luật dân sự năm 2005 quy địn có cơ sở để xác định hợp đồng hợp tác ngày 21/4/2006 bị vô hiệu toàn bộ do bị nhầm lẫn ngay từ thời điểm xác lập vì nguyên đơn đã cố ý làm cho bị đơn nhầm lẫn về nội dung giao dịch mà xác lập việc giao dịch trên với nguyên đơn, vì vậy, căn cứ điều 137 Bộ luật Dân sự quy định thì giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập, do đó, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền.

Xét, các bên thừa nhận ngày 12/7/2006 đã tiến hành lập biên bản kiểm kê tài sản của Công ty, thống nhất với bản liệt kê này về giá trị tài sản như các bên tự xác định. Đồng thời, ngày 28/9/2006 nguyên đơn và bị đơn đã tiến hành việc giao nhận lại tài sản đã góp vào Công ty CP Đầu tư Thẩm Mỹ Xuân Trường, trong đó đã thể hiện nguyên đơn được nhận lại những tài sản liệt kê từ tờ I đến tờ V theo biên bản ngày 28/9/2006, bị đơn nhận lại phần tài sản còn lại trong nhà 139 AB Nguyễn Trãi Quận 1 TP.Hồ Chí Minh. Tại phiên Tòa, đại diện nguyên đơn cũng xác định để tránh thiệt hại hư hao tài sản nên hai bên đã thống nhất tài sản của người nào người đó lấy về. Như vậy, về cơ bản hai bên đã khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã góp vào Công ty. Tuy nhiên, tại phiên Tòa cả hai đều cho rằng chưa được giao nhận lại đầy đủ, cụ thể, phía nguyên đơn cho rằng bị đơn còn chưa giao lại cho nguyên đơn những tài sản như 03 máy lạnh, 01 ghế đôn sơn thường, 07 bộ bàn kiếng chân sắt , 01 bình chữa cháy và lô hàng mỹ phẩm theo biên bản liệt kê ngày 12/7/2006. Còn phía bị đơn cho rằng nguyên đơn đã lấy nhầm của bị đơn những tài sản như 01 máy giặt, 01 bộ bếp gas, 12 gường, 01 nồi cơm điện, 01 tủ lạnh, 01 cân bàn, 01 ổn áp , 01 bàn kiếng tiếp tân, 01 bàn kiếng nhỏ , 08 bộ màn cửa lớn, nhỏ , 01 bao đựng quần áo nhân viên , 01 cây lau nhà , 04 hộp đèn cầy , 02 ghế massage , 14 mền xanh , 01 máy vi tính , 01 máy in , 01 đầu đĩa , 06 chậu thuỷ tinh , 01 tủ đựng hồ sơ , 01 tủ đựng đồ khách , 01 qủa địa cầu , 01 bồn để cá , 04 kệ để dép , 09 bộ máy lạnh. Xét, lời khai nhận của các bên tại phiên Tòa cho thấy khi Công ty chuẩn bị và tiến hành hoạt động kinh doanh, việc đưa tài sản là phần góp vốn của các thành viên là nguyên đơn và bị đơn không được lập biên bản nhập kho quỹ theo quy trình của hệ thống kế toán của Công ty cũng không có sự xác nhận của các bên với nhau, vì vậy, không có cơ sở để xác định tài sản của nguyên đơn đưa vào góp vốn của Công ty gồm những vật dụng, trang thiết bị nào để làm cơ sở đối chiếu, xem xét mặc dù trong biên bản kiểm kê ngày 12/7/2006 thể hiện tại nhà 139 AB Nguyễn Trãi Quận 1 có những tài sản nêu trên, vì vậy, căn cứ vào biên bản thanh lý tài sản ngày 28/9/2006 cho thấy việc giao nhận tài sản đã góp vào Công ty của hai bên đã được giải quyết xong, vì vậy, khi ký nhận tài sản, đại diện uỷ quyền của nguyên đơn đã ghi nhận ‘’Các tài sản còn lại trong nhà 139 AB Nguyễn Trãi là của bị đơn ‘’ mà không có ý kiến về các tài sản khác còn lại thuộc về nguyên đơn sở hữu chưa được giải quyết ; mặt khác trong bản kiểm kê ngày 12/7/2006 cũng không xác định tất cả các tài sản đã kiểm kê là của Công ty CP Đầu tư Thẩm mỹ Xuân Trường. Còn về các vật dụng khác như 01 ghế đôn sơn thường, 07 bộ bàn kiếng chân sắt và 01 bình chữa cháy không thể hiện có trong biên bản kiểm kê ngày 12/7/2006, do đó, yêu cầu đòi bị đơn giao tiếp các tài sản nêu trên của nguyên đơn không có cơ sở để chấp nhận.

Xét, tại phiên Tòa phía nguyên đơn không yêu cầu bị đơn trả lại các tài sản như máy tính xách tay, máy soi da và két sắt, vì vậy Tòa không xét.

Về yêu cầu của bị đơn về việc đòi nguyên đơn hoàn trả lại các trang thiết bị đầu tư đã lấy nhầm khi bàn giao tài sản có trị giá là 112.730.000 đồng. Xét, như đã phân tích trên về việc các bên không tiến hành thủ tục giao nhận tài sản đầu tư ban đầu nên không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu này của bị đơn.

Về yêu cầu của nguyên đơn đòi bị đơn thanh toán lại các chi phí do nguyên đơn bỏ ra đầu tư sửa chữa nhà 139 AB Nguyễn Trãi, xét thấy yêu cầu này là không thể chấp nhận được, bởi lẽ, nguyên đơn không xuất trình được giấy sửa chữa do cơ quan chức năng cấp phép, không được bị đơn thừa nhận và không được ghi nhận trong các sổ sách chứng từ thu chi kế toán của Công ty. Đồng thời, tại biên bản thẩm định tại chổ ngày 11/9/2007 đã thể hiện những phần sửa chữa như nguyên đơn trình bày trong bản tường trình ngày 18/6/2007 ở các mục 2.1, 2.2, 2.3, 2.5 đều không đúng như đã nêu ra.

Về chi phí quảng cáo cho hoạt động của Công ty trên các báo , xét thấy yêu cầu này là không có cơ sở, bởi lẽ, tại phiên Tòa phía nguyên đơn xác nhận bị đơn là người ký hợp đồng quảng cáo và việc quảng cáo này nhằm mục đích tiếp thị hoạt động kinh doanh của Công ty nên không thể buộc bị đơn hoàn lại.

Về yêu cầu của nguyên đơn về việc đòi lại số hàng hoá là mỹ phẩm các loại, xét thấy yêu cầu này không có cơ sở, bởi lẽ, tại phiên Tòa bị đơn đã chứng minh bà Thu là người trực tiếp ký hợp đồng mua các lô hàng mỹ phẩm đã liệt kê trong biên bản ngày 12/7/2006 vì trước và trong khi hợp tác với nguyên đơn, bị đơn là chuyên viên săn sóc da mặt nên khi tiến hành thanh lý tài sản Công ty ngày 28/9/2006 nguyên đơn đã không nhận lại các hàng hoá này. Đồng thời, phía nguyên đơn cũng không chứng minh được việc đã bỏ tiền ra để mua các mỹ phẩm nêu trên.

Xét, hợp đồng hợp tác bị vô hiệu cần phải huỷ và hậu quả của việc giao dịch vô hiệu được giải quyết theo quy định của khoản 1 và 2 điều 137 Bộ luật Dân sự, bên có lỗi gây ra thiệt hại phải bồi thường. Căn cứ, nội dung theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 4103004726 chỉ được phép kinh doanh gồm mua bán mỹ phẩm, trang thiết bị y tế, dụng cụ thẫm mỹ. Y : ngoại tổng quát, đào tạo nghề, tuy nhiên, theo lời các bên thừa nhận sau khi Công ty hoạt động đã thực hiện ngành nghề phẫu thuật tạo hình thẩm my, mặc dù, tại phiên Tòa phía nguyên đơn cho rằng ông Trường đã thực hiện hai ca phẫu thuật thẩm mỹ cho khách hàng bạn bà Thu là thực hiện theo yêu cầu của bà Thu. Như vậy, hoạt động kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp không đăng ký kinh doanh đã vi phạm theo điều 9 điều 11 Luật Doanh nghiệp năm 2005. Đồng thời, việc hoạt động ngành nghề kinh doanh phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ thuộc ngành nghề kinh doanh có điều kiện, được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề nhưng Công ty không đáp ứng nhưng vẫn cố tình hoạt động kinh doanh là hành vi bị cấm vi phạm điều 11 Luật Doanh nghiệp năm 2005. Như vậy, có cơ sở để xác định nguyên nhân dẫn đến hợp đồng hợp tác bị vô hiệu là do lỗi của nguyên đơn vì không có chứng chỉ hành nghề kinh doanh theo thỏa thuận khi hợp tác, tuy nhiên, phía bị đơn khi giấy chứng nhận kinh doanh được cấp vào ngày 10/5/2006 biết không được cấp phép hành nghề như thỏa thuận nhưng vẫn đồng ý chấp nhận cho nguyên đơn bổ sung ngành nghề và để Công ty tiếp tục hoạt động kinh doanh ngành nghề không phép trong 2 tháng đến 12/7/2006 mới chấm dứt hoạt động kinh doanh vì vậy đã rút lại yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại, tự chịu tổn thất phát sinh do việc hợp tác kinh doanh với nguyên đơn vì đã mất thu nhập cho thuê nhà trong 4 tháng là 200.000.000 đồng. Xét, như đã phân tích trên bị đơn không có lỗi trong việc giao dịch này vì ý chí của hai bên khi ký thỏa thuận hợp tác kinh doanh ngày 21/4/2006 thì ngoài các ngành nghề được phép kinh doanh còn phải có hoạt động hành nghề về phẫu thuật, trong khi, ông Trường không có bằng cấp về chuyên môn phẫu thuật nên thỏa thuận này là trái luật, do đó, nghĩ nên bác yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại là 800.000.000 đồng tương đương 50.000 USD của nguyên đơn .

Từ những phân tích vi phạm trên của Công ty CP Đầu tư Thẩm Mỹ Xuân Trường,vì vậy, kiến nghị Sở Kế hoạch đầu tư TP. HCM xem xét và xử lý hành vi vi phạm nêu trên theo luật định.

Về án phí : Nguyên và bị đơn phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo quy định .

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điều 29, 34, 35, khoản 1 điều 131 và điều 210 Bộ Luật tố tụng Dân sự có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 01 năm 2005; Điều 9 và 11 Luật doanh nghiệp năm 2005;Nghị định139/2007/NĐ-CP ngày 05/9/2007 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp; Điều 128, 132, 136 và 137 Bộ luật Dân sự năm 2005, Khỏan 2 điều 15, khoản 1 điều 19 Nghị định 70/CP của Chính phủ quy định về án phí, lệ phí của Tòa án ngày 12 tháng 06 năm 1997; tuyên xử :

1- Tuyên bố hợp đồng thỏa thuận hợp tác lập ngày 21/4/2006 ký giữa ông Đỗ Xuân Trường và bà Phạm Thị Kiều Thu bị vô hiệu toàn bộ.

2- Kiến nghị Sở Kế hoạch và đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh xử lý hành vi vi phạm luật Doanh nghiệp đối với Công ty CP Đầu tư Thẩm Mỹ Xuân Trường về việc không thực hiện việc kê khai trung thực, không chính xác về nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh.

3- Không chấp nhận yêu cầu của ông Đỗ Xuân Trường về việc đòi bà Phạm thị Kiều Thu phải bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng hợp tác là 800.000.000 đồng tương đương 50.000 USD và phải trả lại bằng tiềnViệt nam là 404.788.960 đồng gồm trị giá toàn bộ trang thiết bị đã đầu tư trong thời gian hoạt động Công ty CP Đầu tư Thẩm mỹ Xuân Trường gồm các khoản như sau :

+ Sơn sửa nhà : 91.481.000 đồng

+ Lắp đặt nhôm và kiếng : 8.273.000 đồng

+ Lắp đặt hệ thống âm thanh : 15.000.000 đồng

+ Mua bình chữa cháy : 3.860.000 đồng

+ Sửa chữa đồ gỗ và đóng mới tủ mỹ phẩm : 25.000.000 đồng

+ 07 bàn kiếng chân sắt : 4.760.000 đồng

+ Mua ghế đôn thường :1.350.000 đồng

+ 03 bộ máy lạnh hiệu Reetech RT/RC18G5E(2.0HP): 35.580.000 đồng

+ Chi phí quảng cáo trên các báo : 19.924.000 đồng

+ Mua hoa trang trí : 6.900.000 đồng

+ Mỹ phẩm các loại : 192.660.960 đồng.

– Không chấp nhận yêu cầu của bà Phạm thị Kiều Thu về việc đòi ông Đỗ Xuân Trường phải trả lại bằng tiền là 112.730.000 đồng là trị giá toàn bộ trang thiết bị đã đầu tư trong thời gian hoạt động Công ty CP Đầu tư Thẩm mỹ Xuân Trường gồm các khoản như sau :

+ 01 máy giặt : 3.200.000 đồng.

+ Bếp ga, bình ga, kệ : 1.400.000 đồng

+ 12 gường (400 x12) : 4.800.000 đồng

+ 01 nồi cơm điện : 500.000 đồng

+ 01 tủ lạnh : 2.500.000 đồng

+ Cân bàn, 01 ổn áp : 1.000.000 đồng

+ 01 bàn kiếng tiếp tân, 01 bàn kiếng nhỏ : 8.500.000 đồng

+ 08 bộ màn cửa lớn, nhỏ : 1.000.000 đồng

+ 01 bao đựng quần áo nhân viên : 5.000.000 đồng

+ 01 cây lau nhà :100.000 đồng

+ 04 hộp đèn cầy : 50.000 đồng

+ 02 ghế massage : 380.000 đồng

+ 14 mền xanh : 1.400.000 đồng

+ 01 máy vi tính và máy in : 8.000.000 đồng

+ 01 đầu đĩa : 1.000.000 đồng

+ 06 chậu thuỷ tinh : 600.000 đồng

+ 01 tủ đựng hồ sơ : 2.500.000 đồng

+ 01 tủ đựng đồ khách : 3.000.000 đồng

+ 01 qủa địa cầu : 500.000 đồng

+ 01 bồn để cá : 2.000.000 đồng

+ 04 kệ để dép : 300.000 đồng

+ 09 bộ máy lạnh : 65.000.000 đồng.

4-Về án phí kinh tế sơ thẩm : Ông Đỗ Xuân Trường phải chịu là 28.205.000 đồng, nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự TP.Hồ Chí Minh, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí là 12.000.000 đồng theo BL số 008491 ngày 20/7/2006 của Thi hành án Dân sự Quận 1 và 7.999.000 theo BL số 002878 ngày 22/8/2007 của Thi hành án Dân sự TP.Hồ Chí Minh, ông Trường còn phải nộp án phí KTST là 8.206.000 đồng tại Thi hành án Dân sự TP.HCM. Bà Phạm thị Kiều Thu phải chịu án phí kinh tế sơ thẩm là 5.549.500 đồng, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí là 6.956.000 đồng theo BL số 002798 ngày 14/8/2007 của Thi hành án Dân sự TP.Hồ Chí Minh, bà Thu được nhận lại án phí KTST là 1.406.500 đồng tại cơ quan Thi hành án dân sự TP.HCM. Bà Thu đã nộp đủ án phí KTST.

Đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

5/5 - (1 bình chọn)