Vụ mua bán trẻ em ở chùa Bồ Đề: Căn cứ pháp lý để xử lý hình sự

Tối 2/8, các trinh sát của phòng Cảnh sát hình sự Công an TP. Hà Nội đã ra lệnh bắt khẩn cấp đối tượng Nguyễn Thị Thanh Trang, bảo mẫu kiêm quản lý khu nuôi trẻ mồ côi và trẻ bị bỏ rơi ở chùa Bồ Đề vì liên quan đến việc mua bán trẻ em.

>>> Tổng đài tư vấn pháp luật

Thông tin cho biết, cùng bị bắt với Trang là Phạm Thị Nguyệt (SN 1979) quê quán ở xã Khánh Hòa, huyện Yên Khánh, Ninh Bình.

Ngoài ra, có 3 đối tượng khác được triệu tập để lấy lời khai liên quan đến việc mua bán bé Cù Nguyên Công với giá 35 triệu đồng.

Sự việc nói trên được cho là gây chấn động dư luận vì bản thân người bị bắt đang sinh sống và làm bảo mẫu kiêm quản lý khu nuôi trẻ mồ côi tại chùa Bồ Đề.

bao-mau-bo-de-4614-1407125315
Các đối tượng mua bán trẻ em tại cơ quan điều tra

Trao đổi với báo điện tử Gia đình Việt Nam về tính pháp lý của sự việc, Luật sư Đặng Văn Cường – Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội cho biết: “Phải có căn cứ để xác định có việc mua bán trẻ em tại Chùa Bồ Đề và đã xác định được người thực hiện hành vi mua bán trẻ em thì cơ quan điều tra mới khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh bắt tạm giam đối tượng gây án.

Sự việc mới ở giai đoạn đầu giai đoạn điều tra, trong quá trình điều tra vụ án, cơ quan công an cũng có thể thay đổi, hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và cũng có thể khởi tố bổ sung với các đồng phạm khác. Sự việc sẽ được thực hiện trên cơ sở các quy định về tố tụng hình sự”.

Cũng theo Luật sư Cường, cán bộ cơ quan điều tra cũng sẽ lấy lời khai của tất cả những người có liên quan trong chùa Bồ Đề để xem họ có biết vụ việc mua bán trẻ em này không (đặc biệt là vị sư Trụ trì). Ngoài lần thực hiện hành vi phạm tội này ra, các bị can còn có việc mua bán nào khác không? Ai là người thực hiện vai trò chỉ đạo, cầm đầu trong việc thực hiện hành vi phạm tội ? Ai là người xúi giục, giúp sức… để xác định có đồng phạm hay không và vai trò của các đồng phạm trong vụ án. Nếu xác định có thêm đồng phạm thì sẽ khởi tố bổ sung và tiếp tục mở rộng điều tra vụ án.

Nói về các quy định về hình thức xử phạt đối với hành vi mua bán trẻ em nói trên, Luật sư Đặng Văn Cường cho biết: “Hành vi như đã nêu ở trên có thể xử lý về tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em theo quy định tại Điều 120 Bộ luật hình sự.

Khoản 1, Điều 120 Bộ luật hình sự quy định: “Người nào mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm”.

Ngoài ra, Luật sư Đặng Văn Cường cũng lưu ý, trong quá trình điều tra, có lẽ các bị can và những người liên quan sẽ chỉ khai nhận vai trò môi giới nhận con nuôi “chưa đúng” pháp luật. Tuy nhiên với hành vi này cũng có thể xử lý hình sự theo quy định tại Điều 120 Bộ luật hình sự.

“Theo quy định tại Điều 6, Thông tư số 01/2013/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP ngày 23/7/2013 thì hành vi dùng thủ đoạn môi giới nuôi con nuôi trái pháp luật (để chuyển giao trẻ em cho người đó nhằm nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác thì người môi giới và người nhận nuôi con nuôi) cũng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trẻ em theo quy định tại Điều 120 của Bộ luật hình sự”, Luật sư Cường nói.

Nếu hành vi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:a. Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp (thực hiện hành vi phạm tội từ 05 lần trở lên, không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đối với trường hợp phạm tội từ 05 lần trở lên mà trong đó có lần phạm tội đã bị kết án, chưa được xóa án tích thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị áp dụng các tình tiết định khung hoặc tình tiết tăng nặng “đối với nhiều trẻ em”, “tái phạm” (hoặc “tái phạm nguy hiểm”) và “có tính chất chuyên nghiệp”- hướng dẫn tại Điều 5, Thông tư số 01/2013/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP ngày 23/7/2013);

c) Vì động cơ đê hèn (là trường hợp phạm tội với động cơ đê tiện, thấp hèn, ích kỷ, thể hiện sự bội bạc, phản trắc, hèn nhát. Người phạm tội nhằm mục đích trả thù, hoặc để khống chế nạn nhân và gia đình, người thân của nạn nhân phục vụ cho mưu đồ của mình);

d) Đối với nhiều trẻ em (là trường hợp mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt từ 02 trẻ em trở lên (mua bán từ 2 trẻ em trở lên; đánh tráo từ 02 trẻ em trở lên; chiếm đoạt từ 02 trẻ em trở lên) trong cùng một lần phạm tội hoặc trong các lần phạm tội khác nhau);

đ) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;e) Để đưa ra nước ngoài;g) Để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo (là trường hợp mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em để sử dụng vào mục đích tàn ác, dã man như: để dùng vào việc làm thí nghiệm; buộc trẻ em phải lao động cực nhọc, đi ăn xin để lấy tiền; để quay phim, chụp ảnh, vẽ tranh ảnh khiêu dâm, đồi trụy hoặc các hành vi tương tự khác);

h) Để sử dụng vào mục đích mại dâm;

i) Tái phạm nguy hiểm;

k) Gây hậu quả nghiêm trọng

Thì sẽ bị xử lý theo quy định tại khoản 2, Điều 120 BLHS và hình phạt tù từ 10 năm đến 20 năm hoặc phạt tù chung thân. Trường hợp các đối tượng trên mà mua bán từ 2 trẻ em trở lên thì sẽ bị xử lý vào khoản 2, Điều 120 Bộ luật hình sự.

Điều 120 của Bộ luật hình sự quy định:

– Trường hợp người môi giới nuôi con nuôi biết mục đích của người nhận nuôi con nuôi là sau khi nhận đứa trẻ sẽ bán đứa trẻ đó cho người khác thì người môi giới và người nhận nuôi con nuôi phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trẻ em theo quy định tại Điều 120 của Bộ luật hình sự.

– Trường hợp người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác để môi giới nhận nuôi con nuôi trái phép (không thực hiện đúng các quy định của pháp luật về cho, nhận nuôi con nuôi) hoặc tạo điều kiện cho việc môi giới, nhận nuôi con nuôi trái phép mà biết mục đích của người nhận nuôi con nuôi là nhằm bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc vì mục đích trái pháp luật khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trẻ em theo quy định tại Điều 120 của Bộ luật hình sự.

.- Trường hợp người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác để môi giới nhận nuôi con nuôi trái phép (không thực hiện đúng các quy định của pháp luật về cho, nhận nuôi con nuôi) hoặc tạo điều kiện cho việc môi giới, nhận nuôi con nuôi trái phép, nhưng không biết người nhận nuôi con nuôi nhằm bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc có mục đích trái pháp luật khác thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trẻ em.

Tùy từng trường hợp cụ thể, người đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281), tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đến người khác để trục lợi (Điều 283) hoặc tội danh khác theo quy định của Bộ luật hình sự.

–  Trường hợp một người biết người khác thực sự có nhu cầu nuôi con nuôi (do hiếm muộn hoặc có lòng yêu trẻ) đã giới thiệu người đó với người muốn cho con của chính họ đi làm con nuôi vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có điều kiện nuôi dưỡng đứa trẻ, mong muốn đứa trẻ được nuôi dưỡng tốt hơn và đã nhận một khoản tiền, đồng thời người môi giới cũng được nhận một khoản tiền cho việc môi giới, thì người môi giới, người cho con mình đi làm con nuôi và người nhận con nuôi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trẻ em theo quy định tại Điều 120 của Bộ luật hình sự.

Nguồn: giadinhonline

5/5 - (1 bình chọn)