Tranh chấp hợp đồng hùn vốn

Số hiệu1417/2005/DS-ST
Tiêu đềTranh chấp hợp đồng hùn vốn
Ngày ban hành05/07/2005
Cấp xét sửSơ thẩm
Lĩnh vựcDân sự

TÒA ÁN NHÂN DÂN         CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh                                    Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Hg/10

Án số :1417/2005/DS-ST

Ngày:     05/7/2005

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

****

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Với Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

                        Chủ tọa phiên tòa :  Ông Trần Văn Chưng – Thẩm phán

                        Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Dương Ngọc Khánh

                                                              2. Ông Dương Văn Tám

                        Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa :    Bà Võ Thị Mỹ Hạnh

                        Cán bộ Tòa án

            Ngày 04 tháng 7 năm 2005 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xem xét sơ thẩm công khai vụ án  thụ lý số 21/DSST ngày 10/01/2005 về “Tranh chấp hợp đồng hùn vốn” theo quyết định đưa vụ án ra xem xét số1016/QĐXX-ST ngày 21/6/2005. Tuyên án ngày 05/7/2005, giữa:

            1/ Đồng nguyên đơn :

– Ông Su, Chen Jung (Tô Cẩm Vinh), sinh năm: 1939

Địa chỉ: Lầu 7, số 353, Đoạn 4, Lộ Tây Môn, Đài Nam, Đài Loan

– Ông Chuang Yung Ho (Trang Danh Hòa), sinh năm: 1948

Địa chỉ: số 50, hẻm 171, Đoạn 4, Lộ Tây Môn, Đài Nam, Đài Loan

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn:

Ông Lê Huy Hoàng, sinh năm 1978

Địa chỉ: 841/22 Trần Phú, B’Lao, Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng (Giấy ủy quyền ngày 15/4/2005).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đồng nguyên đơn:

Ông Hà Hải – Luật sư thuộc văn phòng luật sư Hà Hải – Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh.

            2/ Bị đơn : Ông Lin, King Sam (Lâm Khánh Sâm), sinh năm: 1938

Địa chỉ: 177/B4 Nguyễn Tri Phương, phường8, quận  5, Tp.Hồ Chí Minh

Người đại diện hợp pháp của bị đơn:

Ông Châu Bái Trung (Châu Huy Trung), sinh năm 1942

Địa chỉ: 177 Lầu 3 Triệu Quang Phục, phường 11, quận  5, Tp.Hồ Chí Minh (Giấy ủy quyền ngày 27/6/2005)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn:

            Ông Phạm Cao Thái – Luật sư thuộc văn phòng luật sư Phạm Cao Thái, quận5, thành phố Hồ Chí Minh.

            Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

            – Ông Tham See Gieng, sinh năm: 1950

Địa chỉ: 180 Xóm Đất, phường 9, quận 11, Tp.Hồ Chí Minh

– Ông Lâm Thành Thái, sinh năm: 1964

Địa chỉ: ấp Tân Lễ B, xã Châu Pha, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện ngày 12/11/2002, bổ sung cùng ngày 12/11/2002 thì các đồng nguyên đơn ông Su, Chin Jung và ông Chuang, Ying Ho khởi kiện đòi lại số tiền và giá trị máy móc có trị giá 700.000USD mà hai ông đã góp vào thành lập công ty TNHH Kim Cương tại Việt Nam, do bị đơn ông Lin, Kim Sam làm đại diện đã nhận và các thiệt hại do chi phí đi lại khoảng 100.000USD.

Trong quá trình xác minh thu thập và tại phiên tòa sơ thẩm, các đồng nguyên đơn có thay đổi một số phần về giá trị số tiền đòi phía bị đơn phải hoàn trả tổng số tiền yêu cầu là 797.817,31USD. Trong đó :

– ****

            Bà và ông Trần Văn Chép chung sống với nhau từ năm 1975 và sinh được 04 người con là :

            – Trần Thị Bích Liên, sinh năm 1976, hiện đang cứ trú tại Hoa Kỳ.

            – Trần Huy Khanh, sinh năm 1978

            – Trần Huy Khánh, sinh năm 1981

            – Trần Thị Thủy, sinh năm 1989

            Hiện đang ở cùng bà tại nhà số 32/3H khu phố 1 Huỳnh Tấn Phát, phường Bình Thuận, quận 7.

            Trước khi về chung sống với ông Chép, ông Chép có bà vợ tên là Hà Thị Hai (chết năm 1960) ông Chép và bà Hai cũng sinh được 04 người con là:

            – Trần Văn Thước

            – Trần Thị Bằng

            – Trần Thị Bịa

            – Trần Thị Lệ

            Vào năm 1969, ông Chép có mua của ông Trương Đình Thụ và bà Nhữ Thị Nhung 01 nền đất thuộc lô 43 tọa lạc tại ấp 2, xã Tân Thuận Đông, huyện Nhà Bè nay thuộc khu phố 1, phường Bình Thuận, quận 7, Tp. Hồ Chí Minh, khi mua có viết giấy và có sự chứng kiến và thị thực của Ủy ban hành chính xã Tân Thuận Đông, trước bạ ngày 05/6/1969 tại Sở thuế vụ.

            Năm 1971 ông Chép thuê người xây cất trên diện tích đất đã mua căn nhà mang số 32/3 Bis và một số căn nhà kho. Năm 1972, ông Chép và bà Trần Thị Rẫy – ngụ tại 111 ấp 6, xã Đạo Thạnh, Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang hùn vốn mỗi người bỏ ra 2.000.000 đồng để lập trạm chứa xăng và kinh doanh xăng dầu, nhưng do đại lý xăng không  hoạt động nên 02 người đã thanh lý hợp đồng và kết thúc việc kinh doanh.

            Năm 1990, bà Rẫy đến thăm và xin 1 phần đất trống ở cạnh nhà để ở, ông Chép đã đồng ý cho 190m2 đất gồm 8m x 20m đất trống và 4m x 7,5m nhà kho. Ngày 13/8/1990 bà Rẫy không xây nhà để ở mà gọi đến mua nên ông Chép không đồng ý cho nữa.

            Ngày 08/10/1990 ông Chép viết giấy ủy quyền cho bà Nguyên toàn quyền sử dụng phần đất gồm: Đất sau lưng nhà bà có chiều ngang 9m dài 5,5m; nhà kho có chiều ngang 5m dài 7,5m; nhà ông Sanh đang ở tạm có chiều ngang 4m dài 7,5m. Tiếp đến ngày 01/01/1992 ông Chép viết giấy ủy quyền cho bà quản lý lô đất 43.

            Ngày 22/2/1992 ông Chép lập di chúc cho bà Nguyên được thừa kế lập thủ tục hợp thức hóa sở hữu nhà số 32/3Bis và phần đất xung quanh (di chúc có qua công chứng chứng thực ngày 22/2/1992).

            Ngày 26/02/1994 ông Chép chết, sau đó giữa bà Nguyên và bà Rẫy xảy ra tranh chấp về đất ở, sự việc đã được Ủy ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh giải quyết bằng quyết định số6130/QĐ-UB ngày 27/12/1996. Bà Rẫy được giao 190m2 đất trống, gia đình bà Nguyên đã giao đủ 190m2 đất cho bà Rẫy sau đó bà Rẫy đã bán toàn bộ diện tích đất này cho người khác và họ đã xây nhà ở. Trên lô đất 43 này còn có căn nhà kho cũng mang số 32/3 Bis của ông Chép cho vợ chồng ông Sanh, bà Tuyết ở nhờ từ năm 1975 vì ông Sanh là lái xe bồn cho ông Chép, việc cho ở nhờ không viết giấy tờ và không thu tiền.

            Ngày 15/8/2001, giữa bà Nguyên và vợ chồng bà Tuyết viết giấy thỏa thuận gửi Ủy ban nhân dân phường Bình Thuận có nội dung căn nhà mà vợ chồng ông Sanh đã tạm trú thuộc sở hữu của ông Trần Văn Chép và khi gia đình bà có nhu cầu sử dụng thì vợ chồng ông Sanh sẽ hoàn trả lại căn nhà trên. Khi hoàn trả lại vợ chồng ông Sanh sẽ không đặt điều kiện tiền bạc và tự sắp xếp nơi ở mới, giấy có chữ ký của ông Sanh và bà Tuyết và được Ủy ban phường Bình Thuận xác nhận cùng ngày, tuy nhiên khi xác nhận tại Ủy ban chỉ có mặt bà Nguyên không có mặt vợ chồng ông Sanh, bà Tuyết vì lý do ông Sanh, bà Tuyết ký tại nhà bà nên Ủy ban chỉ ký xác nhận chữ ký của  bà Nguyên, nhưng bà Tuyết thừa nhận là đúng chữ ký của mình. Nay gia đình bà có nhu cầu sử dụng nhà thì phía bà Tuyết, ông Sanh không trả nên khởi kiện đòi lại căn nhà nêu trên. Còn quan hệ thừa kế di sản của ông Chép sau này tự giải quyết.

            Bị đơn bà Tuyết cùng đại diện cho ông Sanh trình bày:

            Năm 1971 bà Trần Thị Rẫy và ông Trần Văn Chép có hùn vốn mua 700m2 đất tại ấp 2, xã Tân Thuận, huyện Nhà Bè để mở trạm xăng, bà Rẫy có xây 3 căn nhà kho trên đất đó, khi đó ông Sanh là lái xe bồn cho bà Rẫy.

            Năm 1975, bà Rẫy thấy vợ chồng không có nhà ở nên cho ở trong 1 nhà kho ở giữa có chiều ngang 4m dài 7m để ở tạm và giữ tài sản cho bà Rẫy.

            Năm 1984 bà Nguyên là vợ kế của ông Chép có xin bà Rẫy cho cất nhà ở tạm trên mảnh đất đó.

            Năm 1989 bà Rẫy viết giấy tay cho vợ chồng bà căn nhà kho, có chữ ký của con gái bà Rẫy là Nguyễn Thùy Dung xác nhận ngày 15/6/1989. Vợ chồng bà ở đó từ năm 1975 đến nay và đóng thuế đầy đủ.

            Năm 2001 bà Nguyên và vợ chồng bà có ký giấy thỏa thuận trả nhà cho bà Nguyên nhưng việc ký này không phải để trả nhà mà vì nghe bà Nguyên nói con rễ bà ở Mỹ gửi tiền về để hợp thức hóa nhà bà Nguyên đang ở, do tin tưởng nên không đọc nội dung, vì vậy địa phương đã không xác nhận chữ ký của vợ chồng bà. Nay khẳng định nhà kho mang số 32/3 Bis là của bà Rẫy và đã viết giấy cho vợ chồng bà, nên không đồng ý trả nhà cho bà Nguyên.

            Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có ý kiến như sau:

            – Ông Trần Văn Thước: việc bà Nguyên kiện đòi nhà ông không có ý kiến gì về cho riêng mình và đề nghị được vắng mặt khi tòa hòa giải và xét xử.

            – Bà Trần Thị Bằng: Nếu Tòa án chia nhà thì chia cho 4 anh em là ông Thước, bà Bịa, bà Lệ và bà được 1/3 căn nhà, 1/3 giao cho bà Nguyên, còn 1/3 cho bà Tuyết và đề nghị xin được vắng mặt khi hòa giải và xét xử.

            – Bà Trần Thị Bịa: Không có ý kiến và từ chối không khai báo theo yêu cầu của Tòa án, không ký biên bản của Tòa án.

            – Bà Trần Thị Lệ: không có ý kiến gì về tranh chấp nhà giữa bà Nguyên và vợ chồng ông Sanh, bà Tuyết và xin được vắng mặt khi Tòa án xét xử.

            – Chị Trần Thị Bích Liên, anh Trần Huy Khanh, Trần Huy Khanh, Trần Thị Thủy ủy quyền cho bà Nguyên có chung ý kiến bà Tuyết, ông Sanh phải trả lại nhà trong thời hạn 03 tháng.

            – Chị Lê Ngọc Phượng đại diện cho anh Lê Quang Dũng, Lê Ngọc Anh, Lê Ngọc Liễu trình bày: Anh chị em vào ở căn nhà 32/3Bis từ lúc nhỏ cùng cha mẹ, việc bà Nguyên kiện đòi nhà, anh chị em có chung ý kiến như cha mẹ, vì nguồn gốc căn nhà này do ai cho cha mẹ tôi biết. Và xác định quá trình ở tại căn nhà đó không có sửa chữa gì.

            – Người liên quan bà Trần Thị Rẫy khai: Nhà kho mang số 32/3 Bis nằm trong phạm vi cây xăng là do bà tạo dựng trước năm 1975 và đã cho ông Sanh trước khi có quyết định số 785 ngày 21/11/1995 của Địa chính Nhà đất thành phố, khi cho ông Sanh có mặt cả ông Chép và viết giấy tay. Nay vẫn giữ nguyên ý kiến cho ông Sanh, bà Tuyết và đề nghị khi Tòa án xét xử được vắng mặt.

            – Nhân chứng ông Dương Văn Lâm khai: Năm 1971 ông là thợ xây nhận thầu xây cho ông Chép 03 căn nhà kho và 01 nhà lầu, việc nhận thầu và thanh toán tiền là do ông Chép trực tiếp, ông không biết bà Rẫy và khi Tòa án xét xử xin được vắng mặt.

            Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã xác minh căn nhà số 32/3Bis thuộc khu phố 1 Huỳnh Tấn Phát, phường Bình Thuận đang tranh chấp tại công ty Dịch vụ công ích quận 7 thì căn nhà này không có tên trong danh sách nhà thuộc sở hữu Nhà nước và đã tiến hành yêu cầu cơ quan chuyên môn đo vẽ xác định hiện trạng nhà, định giá giá trị căn nhà và giá trị quyền sử dụng đất ngày 28/9/2004. Căn nhà có cấu trúc: Nhà 1 trệt, mái lợp tole, sà gỗ + thép, nền lát gạch bông, tường gạch, cột gạch quét vôi. Diện tích đất: 28,55m2 giá trị 1 lượng vàng trên 1 m2 = 28,55 lượng vàng SJC. Giá trị phần xây dựng = 28,55m2 x 550.000 đồng = 15.702.500 đồng, tương đương bằng 2,01 lượng vàng SJC. Tổng giá trị nhà đất là 30,56 lượng vàng SJC.

            Quá trình hòa giải phía bà Nguyên yêu cầu nếu bà Tuyết, ông Sanh trả lại nhà thì bà sẽ không tính khoản tiền mà bà đã cho gia đình bà Tuyết vay từ năm 2001 là 15 triệu, đồng thời bà sẽ hỗ trợ thêm 10 triệu. Việc hỗ trợ chỉ xảy ra khi hai bên thương lượng hòa giải thành, còn nếu đưa ra Tòa xét xử bà Nguyên không nhất trí. Phía bà Tuyết, ông Sanh, chị Phượng đồng ý trả nhà cho bà Nguyên nhưng bà Nguyên phải thanh toán cho gia đình bà 150 triệu đồng. Việc hòa giải không thành, Tòa đưa vụ kiện ra xét xử.

            Tại phiên tòa: Các bên đương sự vẫn giữ nguyên quan điểm của mình và không đưa thêm chứng cứ nào khác, ngoài các chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án.

            – Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bên nguyên đơn:

            Xác định nhà số 32/3Bis là của ông Trần Văn Chép nay thừa kế cho bà Nguyên được lập thủ tục hợp thức hóa nhà là có căn cứ. Do vậy áp dụng điều 4 NQ58/1998 ngày 20/8/1998 của Ủy ban Thường vụ quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở buộc vợ chồng ông Sanh, bà Tuyết trả lại nhà và cho lưu cư đến hết ngày 01/7/2005.

            – Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bên bị đơn:

            Xác định lô đất số 43 không phải là của ông Chép mua mà chỉ là người thuê khoán của bà Nhung nên đất này thuộc diện đất thuê trước giải phóng nay nhà nước thống nhất quản lý.

            Căn nhà kho bà Rẫy cho vợ chồng ông Sanh, bà Tuyết là của bà Rẫy vì bà Rẫy có hùn hạp 2 triệu; khi bà Rẫy đòi chia đất năm 1990 ông Chép, bà Nguyên không hề đề cập gì đến căn nhà kho này, do đó việc bà Nguyên kiện là không có căn cứ. Đề nghị xử bác đơn của bà Nguyên.

            Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày và xác nhận của các đương sự trước Tòa.

                             TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

                          NHẬN ĐỊNH

            Việc bà Trần Thị Nguyên là vợ kế của ông Trần Văn Chép khởi kiện đòi nhà số 32/3 Bis khu phố 1 Huỳnh Tấn Phát, phường Bình Thuận, quận 7 hiện do vợ chồng ông Lê Văn Sanh và bà Nguyễn Anh Tuyết cùng các con đang quản lý sử dụng dựa trên cơ sở ông Trần Văn Chép trước khi chết đã lập bản di chúc thừa kế cho bà Nguyên được lập thủ tục hợp thức hóa nhà và phần đất xung quanh nhà 32/3 Bis đây là loại việc kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

            Do phía nguyên đơn khởi kiện có chị Trần Thị Bích Liên là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án, hiện đang cư trú ở nước ngoài nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

            Xét yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Nguyên về đòi lại căn nhà mang số 32/3 Bis hiện do vợ chồng ông Sanh, bà Tuyết và các con đang quản lý sử dụng. Hội đồng xét xử nhận thấy:

            Vào năm 1969, ông Trần Văn Chép nhượng thuê lại của ông Trương Đình Thụ và bà Nhữ Thị Nhung một nền đất thuộc lô 43 tọa lạc tại ấp 2, xã Tân Thuận Đông, huyện Nhà Bè (nay thuộc khu phố 1 đường Huỳnh Tấn Phát, phường Bình Thuận, quận 7) việc nhượng thuê lại có viết giấy và có thị thực của Ủy ban nhân dân xã Tân Thuận Đông và trước bạ vào ngày 05/6/1969 tại Sở thuế vụ.

            Năm 1972 ông Chép và bà Trần Thị Rẫy – trú tại 111 ấp 6, xã Đạo Thạnh, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang có hùn hạp tiền để mở cây xăng và có thuê ông Lê Văn Sanh làm tài xế xe bồn và tiến hành xây 01 nhà ở và 03 căn nhà kho trên mảnh đất của ông Chép mua. Việc kinh doanh xăng dầu của hai người được kết thúc vào năm 1975. Vào thời điểm đó do ông Sanh không có nhà ở nên ông Chép, bà Rẫy cho vợ chồng ông Sanh vào ở 01 căn nhà kho ở giữa có diện tích chiều ngang 4m chiều dài 7,5m và không viết giấy tờ, không thu tiền.

            Năm 1984 bà Trần Thị Nguyên là vợ kế của ông Chép về xây 01 nhà trên mảnh đất của ông Chép để ở, lúc này ông Chép cũng đang ở trong căn nhà số 32/3 Bis cùng các con riêng của bà vợ trước.

            Ngày 13/8/1990 ông Chép đồng ý giao lại cho bà Rẫy 1 nhà kho 4m x 7,5m và phần đất có chiều ngang 8m dài 20m nhưng sau đó ông Chép lại thay đổi ý kiến không cho bà Rẫy nữa.

            Ngày 22/02/1992 ông Chép lập di chúc thừa kế cho bà Nguyên được quyền thay ông Chép sau khi ông Chép qua đời nếu căn nhà mang số 32/3 Bis chưa được hợp thức hóa thì bà Nguyên được quyền làm thủ tục hợp thức hóa nhà và phần đất ở xung quanh, bản di chúc có chứng thực của phòng công chứng Thành phố Hồ Chí Minh ngày 22/02/1992.

            Ngày 15/02/1994 ông Chép qua đời, trước thời điểm ông Chép chết thì giữa ông Chép và bà Rẫy đã xảy ra tranh chấp nhà đất vì ông Chép đã đổi ý không cho bà Rẫy như đã thỏa thuận, sự việc tranh chấp kéo dài đến ngày 27/12/1996 Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định số6130/QĐ-UB, về việc giao cho bà Rẫy được sử dụng phần đất trống 190m2, trong đó có diện tích đất 4m chiều ngang; 7,5m chiều dài nằm cạnh nhà kho mà vợ chồng ông Sanh, bà Tuyết đang ở.

            Ngày 15/8/2001, bà Nguyên và vợ chồng ông Sanh bà Tuyết viết giấy thỏa thuận căn nhà mà vợ chồng ông Sanh đã tạm trú thuộc sở hữu của ông Chép, khi gia đình bà Nguyên có nhu cầu sử dụng thì vợ chồng ông Sanh sẽ hoàn trả căn nhà trên và không đặt điều kiện tiền bạc và bồi thường,vì cho ở nhờ, giấy có chữ ký của bà Nguyên và vợ chồng ông Sanh bà Tuyết và được Ủy ban xã xác nhận chữ ký của bà Nguyên. Còn phía ông Sanh bà Tuyết thừa nhận là vợ chồng có ký vào giấy này, nhưng vì nhầm tưởng là ký để cho bà Nguyên lập thủ tục hợp thức hóa căn nhà bà Nguyên đang ở, và cho rằng nhà số 32/3 Bis là của bà Rẫy cho vợ chồng bà ở nhờ và chính thức viết giấy cho đứt vào ngày 15/6/1989 (không có thị thực của chính quyền địa phương) cho nên nhà này thuộc sở hữu của gia đình bà Tuyết.

            Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ nêu trên thì có đủ cơ sở để  xác định căn nhà số 32/3 Bis khu phố 1 đường Huỳnh Tấn Phát, phường Bình Thuận, quận 7 hiện đang do vợ chồng ông Sanh, bà Tuyết và các con ông đang ở là thuộc sở hữu của ông Trần Văn Chép, bởi lẽ: Từ việc hùn hạp mở trạm xăng trên phần đất của ông Chép mà sau khi chấm dứt kinh doanh, giữa ông Chép và bà Rẫy đã xảy ra tranh chấp đòi quyền sở hữu nhà và sử dụng đất và sự việc đã được Ủy ban nhân dân Thành phố giải quyết và bà Rẫy đã nhận đủ 190m2 đất và đã bán cho người khác. Như vậy căn nhà 32/3 Bis bà Rẫy viết giấy tay cho vợ chồng ông Sanh không phải là nhà kho nằm trên diện tích đất được Ủy ban nhân dân Thành phố giao cho theo quyết định số 6130/QĐUBNC ngày 27/12/1996. Mặt khác, vợ chồng ông Sanh bà Tuyết vào ở trong căn nhà kho đó từ năm 1976, cho đến nay và chỉ có chứng cứ duy nhất là giấy viết tay của bà Rẫy cho không có thị thực của địa phương và giấy đăng ký hộ khẩu thường trú ngày 01/10/1976, và một số chứng từ nộp thuế sử dụng đất, những loại giấy tờ này không có giá trị pháp lý để khẳng định và công nhận quyền sở hữu nhà 32/3 Bis cho vợ chồng ông Sanh, bà Tuyết theo quy định của pháp luật. Trong khi đó, bản thân vợ chồng ông Sanh bà Tuyết lại ký giấy thỏa thuận trả nhà cho bà Nguyên ngày 15/8/2001, và có lúc lại khai trước Tòa án rằng: việc bà Rẫy cho nhà kho thì trước khi cho, không biết nhà kho đó là của bà Rẫy hay không bà không biết và khi Tòa án hòa giải thì vợ chồng bà Tuyết cũng đồng ý trả nhà cho bà Nguyên nhưng đặt điều kiện bà Nguyên phải thanh toán 150 triệu đồng. Vì vậy Hội đồng xét xử thấy việc bà Nguyên khởi kiện đòi căn nhà 32/3 Bis hiện do gia đình ông Sanh quản lý sử dụng là có căn cứ, phía bị đơn và luật sư bên bị đơn đưa ra các chứng cứ cho rằng là nhà của bà Rẫy là không có cơ sở chấp nhận nên cần áp dụng điều 263, 264 Bộ luật dân sự; khoản 3 điều 4 Nghị quyết58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở xác lập trước ngày 01/7/1991, để buộc gia đình ông Sanh bà Tuyết trả căn nhà trên cho bà Nguyên. Trong quá trình ở tại căn nhà đó gia đình ông Sanh, bà Tuyết không sửa chữa hoặc xây mới căn nhà, nên không xem xét đến thanh toán tiền làm tăng giá trị tài sản cho phía bị đơn. Việc chia thừa kế phía gia đình bà Nguyên cũng không yêu c���u xem xét giải quyết trong vụ kiện này. Gia đình ông Sanh và Tuyết được tiếp tục ở lưu cư tại nhà 32/3 Bis cho đến hết ngày 01/7/2005.

            Về án phí áp dụng Nghị định 70/CP ngày 12/06/1997 của Chính Phủ bà Nguyên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, nên được hoàn trả lại 1.250.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp. Ông Sanh bà Tuyết phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 50.000 đồng.

            Từ những phân tích nhận định trên.

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

QUYẾT ĐỊNH

            Tuyên xử:

            1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Nguyên về việc kiện đòi vợ chồng ông Lê Văn Sanh, bà Nguyễn Anh Tuyết trả lại căn nhà số 32/3 Bis khu phố 1, Huỳnh Tấn Phát, phường Bình Thuận, quận 7, Tp. Hồ Chí Minh.

            2/ Buộc ông Lê Văn Sanh, bà Nguyễn Ánh Tuyết phải trả lại căn nhà số 32/3 Bis. Nhà có cấu trúc 1 trệt, mái lợp tole, xà gỗ, nền lát gạch bông, tường xây gạch quét vôi, diện tích xây dựng 28,55m2 nằm trên khuôn viên đất 28,55m2 ở tại hẻm khu phố 1, đường Huỳnh Tấn Phát, phường Bình Thuận, quận 7 cho bà Trần Thị Nguyên (theo bản vẽ hiện trạng lập ngày 23/6/2003) ông Lê Văn Sanh, bà Nguyễn Anh Tuyết được quyền lưu cư tại căn nhà này cho đến hết ngày 01/7/2005.

            3/ Về án phí :

            – Ông Lê Văn Sanh, bà Nguyễn Anh Tuyết phải chịu 50.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

            – Bà Trần Thị Nguyên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên được hoàn trả lại 1.250.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 001727 ngày 14/5/2003 của phòng thi hành án Thành phố Hồ Chí Minh.

            An xử sơ thẩm, các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai bản án.

Hội đồng xét xử sơ thẩm

             Hội thẩm nhân dân                                                                        Chủ tọa

                  (đã ký)                                                                                       (đã ký)

Đặng Kim Dung – Hồ Thị Diệu Hà                                              Trần Văn Chưng

Nơi nhận :                                                   Tp. Hồ Chí Minh, ngày 07 tháng 3 năm 2005

– TAND Tối cao                                                           TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

– VKSND TP.HCM                                                Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa

– Phòng THA-DS TP

– Các đương sự (để thi hành)

– Lưu

                                                                       Trần Văn Chưng

TÒA ÁN NHÂN DÂN                           CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh                                       Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

TL số: 2463/DSST                                                                                               HONG/10

Ngày : 02/12/2002

TRÍCH SAO BẢN ÁN DÂN SỰ

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 330/DSST ngày 28 tháng 02 năm 2005 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử sơ thẩm vụ kiện : “Đòi nhà cho ở nhờ”, giữa :

            Nguyên đơn : Bà Trần Thị Nguyên, sinh năm: 1944 (có mặt)

            Trú tại: 32/3H khu phố 1, Huỳnh Tấn Phát, phường Bình Thuận, quận 7,

Tp.Hồ Chí Minh.

            Đồng bị đơn : Bà Nguyễn Anh Tuyết, sinh năm:1947 (có mặt)

                                      Ông Lê Văn Sanh, sinh năm 1938 (vắng mặt)

            Đều trú tại: 32/3Bis khu phố 1, Huỳnh Tấn Phát, phường Bình Thuận,

quận 7, Tp. Hồ Chí Minh.

            (Ông Sanh ủy quyền hợp lệ cho bà Nguyễn Anh Tuyết).

            Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

            1/ Ông Trần Văn Thước, sinh năm: 1943

            2/ Bà Trần Thị Bằng, sinh năm: 1950

            Đều trú tại: Ap Bến Cỏ, Phú Hòa Đông, Củ Chi – (xin xử vắng mặt).

            3/ Bà Trần Thị Bịa

            4/ Bà Trần Thị Lệ, sinh năm:1958

            Đều trú tại: 32/3 Bis khu phố 1, Bình Thuận, quận 7, Tp. Hồ Chí Minh

            5/ Trần Thị Bích Liên, sinh năm:1976

            Địa chỉ: 39 Bridge Stgeet – ABT 2 llo – Well Ma. 01852 – USA

            6/ Trần Huy Khanh, sinh năm: 1978

            7/ Trần Huy Khanh, sinh năm: 1981

            8/ Trần Bích Thủy, sinh năm: 1989

            Trú tại: 32/3H khu phố 1, Bình Thuận, quận 7, Tp. Hồ Chí Minh.

            Đều ủy quyền hợp lệ cho bà Nguyên tham gia tố tụng.

            9/ Lê Ngọc Phượng, sinh năm: 1973 (vắng mặt).

            10/ Lê Quang Dũng, sinh năm: 1966

            11/ Lê Ngọc Ánh, sinh năm: 1977

            12/ Lê Ngọc Liễu, sinh năm: 1978

            Đều trú tại: 32/3 Bis khu phố 1, Bình Thuận, quận 7, Tp. Hồ Chí Minh.

            Anh Dũng, chị Anh, chị Liễu ủy quyền cho chị Phượng tham gia tố tụng tại tòa.

            13/ Bà Trần Thị Rẫy, sinh năm 1927

            Địa chỉ: 111 ấp 6, Đạo Thạnh, Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang

            (Bà Rẫy xin xử vắng mặt).

            Người làm chứng:

            – Ông Dương Văn Lâm, sinh năm 1934

            Trú tại: 23/5 khu phố 1, phường Tân Thuận Đông, quận 7

            (Ông Lâm xin xử vắng mặt).

            + Luật sư: Vũ Hữu Thiên Ân, văn phòng luật sư Hồng Đức thuộc Đoàn luật sư tỉnh Quảng Nam, bảo vệ quyền lợi cho bà Trần Thị Nguyên (có mặt).

            + Luật sư: Trương Vinh Quang – Trưởng văn phòng luật sư Minh Quang 1162 Phạm Thế Hiển, quận 8, Tp. Hồ Chí Minh, bảo vệ quyền lợi cho bà Nguyễn Anh Tuyết (có mặt).

ÁN ĐÃ TUYÊN

            Tuyên xử:

            1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Nguyên về việc kiện đòi vợ chồng ông Lê Văn Sanh, bà Nguyễn Anh Tuyết trả lại căn nhà số 32/3 Bis khu phố 1, Huỳnh Tấn Phát, phường Bình Thuận, quận 7, Tp. Hồ Chí Minh.

            2/ Buộc ông Lê Văn Sanh, bà Nguyễn Ánh Tuyết phải trả lại căn nhà số 32/3 Bis. Nhà có cấu trúc 1 trệt, mái lợp tole, xà gỗ, nền lát gạch bông, tường xây gạch quét vôi, diện tích xây dựng 28,55m2 nằm trên khuôn viên đất 28,55m2 ở tại hẻm khu phố 1, đường Huỳnh Tấn Phát, phường Bình Thuận, quận 7 cho bà Trần Thị Nguyên (theo bản vẽ hiện trạng lập ngày 23/6/2003) ông Lê Văn Sanh, bà Nguyễn Anh Tuyết được quyền lưu cư tại căn nhà này cho đến hết ngày 01/7/2005.

            3/ Về án phí :

            – Ông Lê Văn Sanh, bà Nguyễn Anh Tuyết phải chịu 50.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

            – Bà Trần Thị Nguyên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên được hoàn trả lại 1.250.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 001727 ngày 14/5/2003 của phòng thi hành án Thành phố Hồ Chí Minh.

            An xử sơ thẩm, các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai bản án.

Hội thẩm nhân dân (đã ký)

Đặng Kim Dung – Hồ Thị Diệu Hà

 Chủ tọa THẨM PHÁN  (đã ký)

    Trần Văn Chưng

Ngày 07 tháng 3 năm 2005

Rate this post