Số hiệu | 1511/2005/DS-PT |
Tiêu đề | Tranh chấp thừa kế |
Ngày ban hành | 18/07/2005 |
Cấp xét xử | Phúc thẩm |
Lĩnh vực | Dân sự |
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Thành phố Hồ Chí Minh Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số :1511/2005/DS-PT B/19
Ngày : 18/7/2005
Về việc : Tranh chấp thừa kế
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có :
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa : Ông Nguyễn Tấn Luận
Các Thẩm phán:
1/ Ông Huỳnh Ngọc Ánh
2/ Ông Đỗ Giang
Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa : Ông Nguyễn Tiến Dũng – Cán bộ Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
Ngày 11 tháng 7 năm 2005, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số 2024/DSPT ngày 01/10/2004 về việc “Tranh chấp thừa kế” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số199/QĐ-ĐXX.PT ngày 30 tháng 6 năm 2005, tuyên án ngày 18/7/2005.
Nguyên đơn : Bà Nguyễn Thị Mua, sinh năm : 1936
Trú tại : 48 Phan Văn Khoẻ, phường 2, Quận 6
Có ông Nguyễn Kỳ Anh Kiệt làm đại diện.
Luật sư Bùi Thanh Nhu – Văn phòng luật sư Bùi Thanh Nhu
Đoàn luật sư TP. Hồ Chí Minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Lan.
Bị đơn : Bà Nguyễn Thị Lan, sinh năm : 1960
Trú tại : 20 Rạch Năng, phường 16, Quận 8
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Nguyễn Thị Chợ, sinh năm 1931
Trú tại : 39/4 Bến Phú Định, phường 16, Quận 8.
Ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Lan làm đại diện
2/ Ông Nguyễn Văn Biên, sinh năm 1954
Trú tại : 19 Khu Rạch Năng, phường 16, Quận 8
3/ Bà Nguyễn Thị Ba, sinh năm 1937
Trú tại :18 Khu Rạch Năng, phường 16, Quận 8.
4/ Ông Kiều Văn Nhà, sinh năm 1951
Trú tại : 376/21 Tổ 3, phường An Lạc, Quận Bình Tân
5/ Bà Kiều Thị Ai, sinh năm 1952
Trú tại : 376/23A Tổ 3, phường An Lạc, Q. Bình Tân
6/ Bà Kiều Thị Ơi, sinh năm 1954
Trú tại :376/21 Tổ 3, Phường An Lạc, Q. Bình Tân
7/ Ông Kiều Văn Út, sinh năm 1960
Trú tại : 376/21 Tổ 3, phường An Lạc, Quận Bình Tân
Tất cả ủy quyền cho ông Nguyễn Anh Kiệt làm đại diện
8/ Ông Trần Bữu Tài, sinh năm 1961
Trú tại : 20 Rạch Năng, phường 16, Quận 8
9/ Bà Nguyễn Thị Ba, sinh năm 1940
Trú tại : 20 Rạch Năng, phường 16, Quận 8.
NHẬN THẤY
Tóm tắt nội dung vụ án sơ thẩm.
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Mua ủy quyền cho ông Nguyễn Kỳ Anh Kiệt trình bày : Ông Nguyễn Văn Nga có tất cả 6 anh chị em gồm bà Nguyễn Thị Tự (chết năm 2003), bà Nguyễn Thị Thị, bà Nguyễn Thị Mua, bà Nguyễn Thị Chợ và ông Nguyễn Văn Mân (chết năm 1974), cha, mẹ ông Nga chết từ năm 1946.
Ông Nga chết năm 1982 lúc còn sống ông có căn nhà lá diện tích 120m2 trong khuôn viên 590m2 có vị trí là một phần thửa 491 theo tờ bản đồ số 13, phường 16, Quận 8. Do ông Nga chết không để lại di chúc, nên ông đề nghị chia di sản của ông Nga gồm 590m2 nhà và đất cho 4 anh chị em.
Phần xây dựng nhà của bà Thị và bà Lan trên đất ông không tranh chấp. Ngoài ra ông Trần Bửu Tài là con của bà Nguyễn Thị Ba có cất nhà trên đất, ông không có tranh chấp. Nếu ông Tài xây nhà trên đất thì phải hoàn trả phần di sản được hưởng cho các đồng thừa kế khác.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Thị có bà Nguyễn Thị Lang làm đại diện trình bày :
Bà xác nhận phần đất thổ cư ông Nga chết để lại năm 1982 là 590m2 không có căn nhà lá số 20 Rạch Năng, phường 16, Quận 8 diện tích xây dựng 120m2. Nhà lá hiện nay không còn vì bị hư hại quá nhiều bà đã xây lại nhà tường lợp tôn như hiện nay. Bà Thị là người trực tiếp canh tác và đăng ký theo chỉ thị 299 của Thủ tướng Chính phủ. Nay bà không đồng ý chia thừa kế cho bà Mua. Phần đất ông Tài đang xây nhà bà không có ý kiến.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày :
-Bà Nguyễn Thị Chợ không đồng ý chia thừa kế.
-Các con của ông Nguyễn Văn Mân là bà Nguyễn Thị Ba, Nguyễn Văn Biên xin rút lại yêu cầu không tranh chấp thừa kế.
-Các con của bà Nguyễn Thị Tự là Kiều Văn Nhà, Kiều Thị Út, Kiều Thị Ai, Kiều Ơi, yêu cầu xin được chia phần thừa kế của bà Tự.
-Bà Nguyễn Thị Ba con của bà Nguyễn Thị Tự yêu cầu được chia di sản thừa kế của ông Nga. Phần của bà đựơc hưởng bà cho con là Trần Bửu Tài.
-Ông Trần Bửu Tài cho rằng ông đi bộ đội về không có nhà ở bà Thị có cho ông 105,43m2 để cất nhà. Nếu Tòa chia cho mẹ ông là bà Ba được hưởng bao nhiều thì ông nhận và không có ý kiến gì khác.
-Luật sư bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn đề nghị chia di sản của ông Nga ra 5 phần bằng nhau, mỗi thừa kế được hưởng 1phần, riêng bà Thị được hưởng 2 phần do có công sức gìn giữ di sản.
-Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị đơn đề nghị :
Thời hiệu khởi kiện về thừa kế đã hết từ ngày 10/9/2000. Do đó không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
-Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 đề nghị :
Chấp nhận yêu cầu xin chia thừa kế của nguyên đơn. Đề nghị chia di sản của ông Nga thành 4 phần bằng nhau để chia cho bà Mua, bà Chợ, bà Chi và bà Tự.
Án sơ thẩm quyết định :
Công nhận di sản thừa kế của ông Nguyễn Văn Nga gồm 515,2m2 đất thổ cư và căn nhà lá 120m2 trị giá quyền sử dụng đất là 730.612.500đồng.
Chấp nhận yêu cầu xin rút đơn của ông Kiệt đại diện cho ông Biên, bà Ba (con của ông Nguyễn Văn Mân chết năm 1974).
Công nhận những người được hưởng di sản thừa kế của ông Nguyễn Văn Nga gồm bà Nguyễn Thị Mua, bà Nguyễn Thị Thị, bà Nguyễn Thị Chợ và bà Nguyễn Thị Tự.
Bà Nguyễn Thị Tự có các con được hưởng thừa kế là bà Nguyễn Thị Ba, ông Kiều Văn Nhà, bà Kiều Thị Út, bà Kiều Thị Ai, bà Kiều Thị Ơi.
Di sản của ông Nga được chia làm 05 phần, mỗi một đồng thừa kế của ông Nga được hưởng 1/5 trị giá di sản thừa kế tại thời điểm xét xử tương đương 146.122.000đồng. Bà Thị được hưởng phần công sức giữ gìn bảo quản di sản tương đương một phần thừa kế trị giá tại thời điểm xét xử là 146.122.000đồng.
Bà Thị được tiếp tục sử dụng 409,75m2, bà Thị có trách nhiệm giao lại cho bà Mua, bà Chợ mỗi người 146.122.000đồng.
Ông Trần Bửu Tài được bà Ba ủy quyền cho nhận tàisản của bà Ba. Ông Tài được tiếp tục sử dụng 105,45m2 đất và có trách nhiệm giao lại cho ông Nhã, bà Ut, bà Ai, bà Ơi mỗi người 29.224.000đồng.
Bà Thị và ông Tài được quyền liên hệ với cơ quan chức năng xin phép hợp thức hoá quyền sử dụng đất đối với diện tích đất được chia thừa kế theo quy định của pháp luật, sau khi đã thanh toán xong tiền cho các thừa kế có tên nêu trên.
Án sơ thẩm còn tuyên án phí và quyền kháng cáo cho các bên đương sự.
Ngày 12/8/2004 nguyên đơn có đơn xin kháng cáo bản án sơ thẩm.
Ngày 11/8/2004 bị đơn có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm các bên đương sự có yêu cầu như sau :
-Ông Kiệt đại diện cho nguyên đơn xác định di sản của ông Nga chết năm 1982 để lại cả căn nhà lá 120m2 trên tổng diện tích đất 513,2m2. Ông yêu cầu được chia làm 4 phần bằng nhau. Bà Tự, bà Chợ, bà Mua, bà Thị mỗi người được hưởng 1 phần bằng nhau được tính theo giá trị quyền sử dụng đất.
-Bà Lan (là thừa kế của bà Mua) xác định sau khi ông Nga chết nhà cháy hoàn toàn , đất bỏ hoang một năm sau bà về khai hoang và sử dụng ổn định lâu dài từ năm 1983 đến nay. Phần đất tranh chấp nói trên cha bà là ông Nguyễn Văn Răng có đăng ký trong sổ bộ theo chỉ thị 299/TTg. Gia đình bà thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước từ năm 1983 cho đến nay. Bà không đồng ý chia thừa kế theo yêu cầu của nguyên đơn. Còn diện tích 105,45m2 đất ông Trần Bửu Tài đang sử dụng bà không tranh chấp (trước đây bà Mua cho ông Tài).
-Bà Nguyễn Thị Chợ ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Lan làm đại diện không đồng ý chia thừa kế theo yêu cầu của nguyên đơn.
-Bà Nguyễn Thị Ba, ông Nguyễn văn Biên ủy quyền cho ông Nguyễn Kỳ Anh Kiệt xin rút lại yêu cầu xin chia thừa kế.
-Ông Kiều Văn Nhà, bà Kiều Thị Út, bà Kiều Thị Ai, bà Kiều Thị Ơi tất cả ủy quyền cho ông Nguyễn Kỳ Anh Kiệt yêu cầu xin được chia di sản thừa kế của ông Nga.
-Ông Trần Bửu Tài cho rằng phần đất 105,45m2 là do bà Thị cho ông để xây nhà ở nên ông không có ý kiến gì.
-Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Lan đề nghị :
Theo nguyên đơn cho rằng ông Nga chết năm 1982 để lại di sản gồm 1 căn nhà lá 120m2 trên diện tích đất 515,2m2. Như vậy ông Nga chết để lại đất mà đất đó không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không có một trong các giấy tờ quy định tại khoản 1, 2, 3 điều 50 luật đất đai năm 2003 và di sản là căn nhà lá gắn liền với quyền sử dụng đất cũng không còn (Theo xác nhận của Ủy ban nhân dân phường 16, Quận 8 thì căn nhà trên bị tiêu hủy hoàn toàn). Do đó vụ kiện trên không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN THẤY
-Về hình thức : Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị Mua do ông Nguyễn Kỳ Anh Kiệt và bà Nguyễn Thị Thị do bà Nguyễn Thị Lan làm đại diện làm trong hạn luật định do đó nghĩ nên chấp nhận.
-Về nội dung : Bà Nguyễn Thị Thị là bị đơn trong vụ kiện. Trong quá trình giải quyết vụ kiện ngày 07/5/2005 bà Thị mất bà Lan là người con nuôi duy nhất được bà Thị lập tờ di chúc để lại 1.407m2 đất trong đó có 515,2m2 đất tại thửa 491 tờ bản đồ số 13, phường 16, Quận 8 mà đôi bên đang tranh chấp.
Bà Lan là thừa kế duy nhất của bà Thị do đó bà Lan phải giải quyết các quyền và nghĩa vụ thay bà Thị với tư cách bị đơn trong vụ kiện.
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ và lời khai của các đương sự tại Tòa, đã có đủ cơ sở để xác định ông Nguyễn Văn Nga là con của ông Nguyễn Văn Ngân và bà Nguyễn Thị Đây đã chết trước ông Nga. Ông Nga chết năm 1982 không có vợ con, có tất cả 5 anh chị em ruột :
1/ Ông Nguyễn Văn Mân (chết năm 1976)
2/ Bà Nguyễn Thị Tự (chết năm 2000)
3/ Bà Nguyễn Thị Chợ
4/ Bà Nguyễn Thị Mua
5/ Bà Nguyễn Thị Thị (chết 07/5/2005)
Ông Nga chết năm 1982 để lại căn nhà lá và đất tại 1 phần thửa 491. Ông Nga không có vợ con, chết không để lại di chúc. Do đó những đồng thừa kế của ông Nga xin được hưởng di sản của ông Nga để lại theo luật thừa kế là có cơ sở để xem xét.
Xét thấy theo lời khai nhận của bà Thị cũng như lời khai của bà Lan thì khi ông Nga chết vào năm 1982 có để lại 1 căn nhà lá có diện tích là 120m2 và diện tích đất chung quanh khoảng 590m2.
Xét thấy ông Nga có cha, mẹ nhưng đã chết trước ông, bản thân ông không có vợ con do đó di sản thừa kế của ông được để lại cho các anh, chị em ruột của ông.
Án sơ thẩm xác định ông Nga chết 1982 để lại di sản là căn nhà lá có diện tích 120m2 trên diện tích đất 515,2m2 để làm căn cứ chia di sản thừa kế là không chính xác.
Căn cứ theo Nghị quyết02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 tại mục II có hướng dẫn : Trong trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các giấy tờ được quy định tại khoản 1, 2,5 Điều 5 của Luật Đất đai năm 2003 nhưng có di sản là nhà ở và vật kiến trúc khác gắn liền với quyền sử dụng đất, việc sử dụng đất này là hợp pháp nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Tòa án giải quyết yêu cầu chia di sản gắn liền với quyền sử dụng đất.
Căn cứ vào tờ khai gia đình chế độ cũ lập ngày 14/6/1974 tại địa chỉ 21 Khu Rạch Năng, phường Phú Định, Quận 7 (số mới 20 khu Rạch Năng phường 16, Quận 8) đã xác định ông Nguyễn Văn Nga là gia trưởng đồng thời là chủ căn nhà nói trên. Căn cứ vào lời khai xác nhận của bà Lan và bà Thị tại biên bản ghi lời khai, biên bản đối chất, biên bản phiên tòa vào các ngày 11/9/2001, 04/5/2003, 02/8/2004 đã xác nhận sau khi ông Nga chết có để lại căn nhà lá trên diện tích đất là 590m2.
Tuy nhiên cần phải xác định sau khi ông Nga mất di sản ông Nga để lại là căn nhà lá gắn liền với quyền sử dụng đất là bao nhiêu mét vuông. Trong quá trình điều tra giải quyết vụ kiện đôi bên không thống nhất về diện tích nhà cũng như đất. Phía nguyên đơn không đưa ra được chứng cứ nào để xác định rằng di sản của ông Nga để lại là một căn nhà lá có diện tích 120m2 trên diện tích đất là 515,2m2. Trong khi đó theo xác nhận tại công văn số15350/TTĐK-KT ngày 17/8/2004 của Trung tâm thông tin đăng ký nhà đất thì người sử dụng đất tại thửa 384 (số thửa mới là 491 tờ bản đồ số 3 là ông Nguyễn Văn Năng và ông Nguyễn Văn Đời).
Như vậy chỉ có một căn cứ duy nhất là bản kê khai nhà cửa cho ông Nguyễn Văn Nga lập vào ngày 16/12/1977 đã xác định căn nhà chỉ có diện tích 30m2 và đất trên diện tích của khu nhà là 144m2. Như vậy có đủ cơ sở để xác định di sản của ông Nga để lại là 1 căn nhà lá trên diện tích đất là 144m2, phần còn lại thuộc quyền sử dụng của gia đình là Lan.
Xét thấy ông Nga chết không có vợ con, không để lại di chúc do đó các anh chị em ruột của ông Nga được hưởng di sản của ông Nga gồm :
-Ông Nguyễn Văn Mân, chết năm 1974 trước thời điểm mở di sản thừa kế của ông Nga. Tại Tòa sơ thẩm ông Kiệt đại diện cho con của ông Mân là bà Nguyễn Thị Ba và ông Nguyễn Văn Biên rút lại yêu cầu nên Tòa không xét.
-Bà Nguyễn Thị Chợ.
-Bà Nguyễn Thị Tự (chết 2000) có con là Nguyễn Thị Ba, ông Kiều Văn Nhà, bà Kiều Thị Ai, bà Kiều Thị Ơi, ông Kiều Văn Út.
-Bà Nguyễn Thị Mua
-Bà Nguyễn Thị Thị (chết 5/2005) có con là bà Nguyễn Thị Lan.
Như vậy di sản thừa kế của ông Nga để lại là nhà và đất là 144m2 sẽ được tính theo giá trị quyền sử dụng đất và chia đều cho 4 thừa kế. Căn cứ vào biên bản định giá ngày 21/4/2004 xác định giá trị quyền sử dụng ở là 2.500.000đ/m2. Như vậy di sản thừa kế của ông để lại có giá trị là :
144m2 x 2.500.000đ/m2 = 360.000.000đồng.
Mỗi 1 phần thừa kế được hưởng 90.000.000đồng
Án sơ thẩm xác định mỗi 1 phần di sản được hưởng là 146.122.000đồng là không đúng cần phải sửa lại phần này.
Đối ông Tài án sơ thẩm buộc ông Tài phải thanh toán lại cho các con của bà Tự mỗi người 29.224.400đồng là không đúng. Bởi vì việc sử dụng và quản lý 105,45m2 là do bà Thị cho ông Tài đất để cất nhà ở. Tại Tòa sơ thẩm cũng như tại Tòa phúc thẩm ông Tài và bà Lan không có tranh chấp gì liên quan đến phần đất nói trên cũng như tài sản trên đất nên Tòa không xét.
Về phía bà Lan sau thực hiện xong nghĩa vụ giao tiền cho bà Mua, bà Chợ, các con của bà Tự thì bà Lan có quyền liên hệ với các cơ quan chức năng để xin họp thức hoá diện tích đất tại một phần thửa 491 theo tờ bản đồ số 3 phường 16, quận 8 theo kết quả đo đạt xác định ranh của Đoàn đo đạc bản đồ lập ngày 09/02/2004.
Các bên đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
-Căn cứ Điều 677, 678, 679 Bộ luật dân sự
-Căn cứ Điều 275, 276 Bộ luật Tố tụng dân sự
-Căn cứ Nghị định 70/CP – 12/6/1997
-Căn cứ vào Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997.
-Căn cứ vào Nghị quyết02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004.
QUYẾT ĐỊNH
1/ Về hình thức: Chấp nhận kháng cáo hợp lệ của ông bà Nguyễn Thị Mua và bà Nguyễn Thị Thị.
2/ Về nội dung : Sửa một phần án sơ thẩm.
-Xác định di sản thừa kế của ông Nguyễn Văn Nga chết năm 1982 để lại gồm 1 căn nhà lá 30m2 trên diện tích đất 144m2 tại số 20 Rạch Năng, phường 16, Quận 8 (thuộc 1 phần thửa 491 tờ bản đồ số 3 phường 16, Quận 8) được tính thành giá trị quyền sử dụng là 360.000.000đồng.
-Công nhận những người được hưởng di sản thừa kế của ông Nguyễn Văn Nga gồm bà Nguyễn Thị Mua, bà Nguyễn Thị Chợ, bà Thị Thị (chết tháng 5/2005 có con là bà nguyễn Thị Lan) thừa kế. Bà Nguyễn Thị Tự (chết năm 2000) có con là bà Nguyễn Thị Ba, ông Kiều Văn Nhà, bà Kiều Thị Ai, bà Kiều Thị Ơi, ông Kiều Văn Út là thừa kế).
-Buộc bà Nguyễn Thị Lan (thừa kế của bà Nguyễn Thị Thị) phải có trách nhiệm thanh toán cho bà Nguyễn Thị Mua 90.000.000đồng, bà Nguyễn Thị Chợ 90.000.000đồng và các thừa kế của bà Nguyễn Thị Tự là bà Nguyễn Thị Ba, ông Kiều Văn Nhà, bà Kiều Thị Út, bà Kiều Thị Ai, bà Kiều Thị Ơi mỗi người 18.000.000đồng.
-Bà Nguyễn Thị Lan được quyền liên hệ với các cơ quan có chức năng để xin cấp quyền sử dụng đất tại 1 phần thửa 491 tờ bản đồ số 3, phường 16, Quận 8 theo kết quả xác định ranh của Đoàn đo đạc bản đồ – Sở Tài nguyên môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 09/02/2004 sau khi thanh toán xong tiền cho các thừa kế nói trên.
-Thi hành tại Cơ quan thi hành án Quận 8.
-Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Mua, bà Chợ, bà Thị Lan mỗi người chịu 4.500.000đồng. Bà Ba, ông Nhà, bà Út, bà Ai, bà Ơi mỗi người chịu 900.000đồng.
Bà Mua được trừ tiền tạm ứng án phí 2.860.000đồng theo biên lai thu số 045540 ngày 30/5/2001 của Cơ quan thi hành án Quận 8.
Án phí dân sự phúc thẩm: 50.000đồng do bà Mua chịu. Được trừ vào tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 50.000đồng. Chịu theo biên lai thu số 049399 ngày 13/12/2002. Bà Thị chịu 50.000đồng tiền án phí phúc thẩm. Được trừ tạm ứng án phí phúc thẩm 50.000đồng theo biên lai thu số 008923 ngày 11/8/2004.
Kề từ khi có đơn xin thi hành án của bà Mua, bà Chợ, bà Ba, ông Nhà, bà Út, bà Ai, bà Ơi nếu bà Lan chưa thi hành số tiền nói trên thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Án xử phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
TM. Hội đồng xét xử phúc thẩm
Thẩm phán – Chủ tọa phiên Tòa
Nơi nhận :
-Tòa án nhân dân Tối cao
-VKSND TP. HCM
-CQ. THA. Q.8
-TAND Q. 8
-Các đương sự
-Lưu
Nguyễn Tấn Luận