Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự

Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự

Thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng hình sự là một một chế định tiến bộ trong pháp luật tố tụng hình sự. Thủ tục rút gọn có sự rút ngắn về thời gian, cách thức giải quyết vụ án hình sự nên khi được áp dụng, việc giải quyết vụ án sẽ không mất nhiều thời gian như với thủ tục thông thường, góp phần hạn chế những tình trạng đọng án. Để hiểu rõ hơn về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự, Quý bạn đọc có thể tham khảo bài viết dưới đây của Phamlaw.

CĂN CỨ PHÁP LÝ

Bộ luật tố tụng hình sự 2015

NỘI DUNG TƯ VẤN

1. Thủ tục rút gọn là gì?

Thủ tục rút gọn là một loại thủ tục tố tụng đặc biệt, giảm thiểu về trình tự, thủ tục, rút ngắn về thời hạn tố tụng, được áp dụng khi có những điều kiện do luật tố tụng hình sự quy định nhằm giúp cho việc giải quyết vụ án hình sự nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, chi phí và các nguồn lực khác của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng cũng như của các cơ quan, tổ chức cá nhân khác trong quá trình tố tụng hình sự.

Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự có ý nghĩa như sau:

Thứ nhất, Thủ tục rút gọn là cơ sở pháp lý để các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết nhanh chóng, kịp thời nhiều vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng, có tính chất quả tang, đơn giản, rõ ràng; tiết kiệm được thời gian, tiền bạc, công sức trong việc giải quyết những vụ án loại này, tập trung vào việc giải quyết những vụ án nghiêm trọng, đáp ứng yêu cầu kịp thời, nhanh chóng của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm; góp phần giải quyết tình trạng tồn đọng án và vi phạm các quy định của BLTTHS về thời hạn.

Thứ hai, Việc giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn tạo điều kiện để nhanh chóng khắc phục những thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, góp phần đảm bảo lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân; tiết kiệm được thời gian, chi phí cho những người tham gia tố tụng, giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống và tham gia vào các quan hệ pháp luật khác.

2. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn

Trong BLTTHS năm 2003 thì thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên, đến BLTTHS 2015 thì phạm vi áp dụng đã được mở rộng. Cụ thể, tại Điều 455 Chương XXXI BLTTHS 2015 đã bổ sung: “Thủ tục rút gọn đối với việc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm được thực hiện theo quy định của Chương này và những quy định khác của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này”. Như vậy, BLTTHS 2015 đã mở rộng phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử phúc thẩm.

3. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm

Theo quy định tại Điều 456 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, thủ tục rút gọn được áp dụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm khi có đủ các điều kiện:

Thứ nhất, Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự thú;

Phạm tội quả tang là trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt khi đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Như vậy, phạm tội quả tang gồm các trường hợp: trường hợp người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện và bị bắt giữ; trường hợp ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện và bị bắt giữ và trường hợp đang bị đuổi bắt vì bị phát hiện đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm.

Khi phát hiện người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến các cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

Thứ hai, Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng;

Sự việc phạm tội đơn giản là những sự việc mà vấn đề cần chứng minh trong vụ án không phức tạp và dễ xác định. Có thể hiểu sự việc phạm tội đơn giản như sau:

+ Tội phạm được thực hiện tại một địa điểm nhất định, không liên quan đến nhiều địa bàn khác.

+ Người thực hiện hành vi phạm tội thường là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, không thuộc trường hợp có nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ. Hành vi mà họ thực hiện thường do lỗi cố ý, yếu tố lỗi được thể hiện rõ ràng và dễ xác định.

+ Mục đích phạm tội thường là lợi ích vật chất, động cơ vụ lợi mang tính nhất thời, dễ xác định.

+ Sự việc phạm tội không liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, không liên quan đến chính sách dân tộc, tôn giáo, phong tục tập quán hay những vấn đề chính trị, an ninh, kinh tế… phức tạp khác.

Thứ ba, Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng;

Bộ luật Hình sự phân hóa tội phạm thành bốn loại tội khác nhau, bao gồm: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.  Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù. Theo quy định này để xác định tội phạm ít nghiêm trọng phải dựa trên hai dấu hiệu: dấu hiệu về mặt nội dung chính trị xã hội và dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lý. Dấu hiệu về mặt nội dung chính trị xã hội là tính nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà khung hình phạt cao nhất đối với tội phạm ít nghiêm trọng là đến ba năm tù.

Thứ tư, Người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng.

Lý lịch của bị can, bị cáo liên quan đến năng lực trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo, liên quan đến việc quyết định hình phạt (tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo)… Lý lịch của người phạm tội đã rõ ràng thì thời gian điều tra, xác minh có thể được rút ngắn và từ đó bảo đảm thời gian tố tụng.

4. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử phúc thẩm

Thủ tục rút gọn được áp dụng trong xét xử phúc thẩm khi có một trong các điều kiện:

Thứ nhất, Vụ án đã được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo;

Thứ hai, Vụ án chưa được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm nhưng có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều Điều 456 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo.

5. Thẩm quyền áp dụng, hủy bỏ thủ tục rút gọn

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 thì chỉ có Viện kiểm sát là chủ thể duy nhất có thẩm quyền áp dụng và hủy bỏ thủ tục này trong ba giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Quy định như vậy dẫn đến không chủ động và không đề cao trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Tòa án trong việc giải quyết vụ án hình sự theo thủ tục rút gọn.

Nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trên, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã quy định theo hướng mở rộng thẩm quyền áp dụng, hủy bỏ thủ tục rút gọn cho cả 3 chủ thể là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Đối với quyết định áp dụng thủ tục rút gọn của Cơ quan điều tra, Tòa án được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định để kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút gọn. Trong trường hợp xét thấy quyết định áp dụng thủ tục rút gọn của Cơ quan điều tra không đúng pháp luật, thì trong thời hạn 24 giờ Viện kiểm sát phải ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và gửi cho Cơ quan điều tra biết. Còn đối với quyết định áp dụng thủ tục rút gọn của Tòa án trong trường hợp không đúng pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đã ra quyết định; Chánh án Tòa án phải xem xét, trả lời trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được kiến nghị của Viện kiểm sát.

Trên đây là nội dung tư vấn của Phamlaw về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự. Nếu bạn còn vướng mắc hoặc muốn được hỗ trợ tư vấn, vui lòng kết nối đến tổng đài tư vấn của chúng tôi. Hỗ trợ dịch vụ qua các đầu số hotline 097 393 8866 hoặc 091 611 0508.

5/5 - (1 bình chọn)