Tối huệ quốc là gì? Nội dung nguyên tắc tối huệ quốc?
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, cùng với nguyên tắc đối xử quốc gia, đã trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của hệ thống luật thương mại và đầu tư quốc tế, nhằm đảm bảo quyền và nghĩa vụ bình đăng của các thương nhân và nhà đầu tư khi hoạt động trên lãnh thổ nước ngoài. Bài viết dưới đây sẽ tìm hiểu về các nguyên tắc tối huệ quốc theo quy định của pháp luật quốc tế.
Căn cứ pháp lý
Tối huệ quốc là gì?
Tối huệ quốc là một trong những quy chế pháp lý quan trọng trong thương mại quốc tế hiện đại. Quy chế này được coi là một trong những nguyên tắc nền tảng của hệ thống thương mại đa phương của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Chế độ tối huệ quốc đòi hỏi một quốc gia phải bảo đảm dành cho tất cả các quốc gia đối tác một chế độ ưu đãi thương mại thuận lợi như nhau. Cụ thể là trong các điều ước quốc tế về thương mại cũng như luật thương mại quốc gia, đãi ngộ tối huệ quốc thường được thể hiện dưới dạng quy định cho các sản phẩm hàng hóa dịch vụ có xuất xứ từ một quốc gia đối tác được hưởng chế độ thương mại “không kém ưu đãi hơn chế độ ưu đãi nhất” mà quốc gia sở tại dành cho các những sản phẩm hàng hóa dịch vụ tương tự của bất kỳ quốc gia nào khác.
Đối xử tối huệ quốc trong đầu tư thường được quy định ở điều khoản Đối xử tối huệ quốc trong các hiệp định đầu tư, trong đó, nhà đầu tư của một bên quốc gia, hoặc chính quốc gia đó khi đầu tư sẽ được “đôi xử không kém thuận lợi hơn” so với nhà đầu tư của nước thứ ba, hoặc chính quốc gia thứ ba trong cùng một lĩnh vực vấn đề đầu tư.
Với sự tồn tại của chế độ đãi ngộ tối huệ quốc, các quốc gia sẽ được bảo đảm rằng quốc gia đối tác thương mại của mình sẽ không dành cho quốc gia khác chế độ thương mại ưu đãi hơn, qua đó triệt tiêu lợi thế cạnh tranh tự nhiên của họ đối với sản phẩm hàng hóa dịch vụ cụ thể trong cạnh tranh với các quốc gia liên quan đó. Ngoài ra, Tối Huệ Quốc còn là một trong 7 nguyên tắc cơ bản (Việt Nam công nhận 7 nguyên tắc tuy nhiên một số nước công nhận…) của luật quốc tế hiện đại. Do vậy, nguyên tắc này không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực thương mại mà còn trong một số lĩnh vực khác.
Nội dung nguyên tắc tối huệ quốc (MFN)
Nguyên tắc này được hiểu là dựa trên cam kết thương mại, một nước dành cho nước đối tác ưu đãi có lợi nhất mà nước đó đang và sẽ dành cho nước thứ ba khác trong tương lai.
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (General Agreement on Tariffs and Trade – GATT) ra đời năm 1947 là hiệp định thương mại đa phương đầu tiên sử dụng một cách rộng rãi nguyên tắc này. Đây được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản để thực hiện mục tiêu tự do hóa thương mại của WTO. Theo nguyên tắc này thì bất kì ưu đãi, ưu tiên, đặc quyền hoặc miễn trừ nào mà nước thành viên dành cho sản phẩm của nước thành viên khác sẽ phải được dành cho sản phẩm cùng loại của các nước thành viên còn lại. Mục đích của nguyên tắc này là nhằm đảm bảo rằng sản phẩm nhập khẩu cùng loại sẽ được đối xử bình đẳng và không phân biệt tại nước nhập khẩu. Do đó, nguyên tắc này còn được gọi là nguyên tắc đối xử không phân biệt.
Nguyên tắc đối xử không phân biệt được quy định cụ thể trong các hiệp định sau của WTO.
GATT 1994 (Điều 1); GATS (Hiệp định về thương mại dịch vu – General Agreement on Trade in Services) (Điều 2); TRIPs (Hiệp định về một số khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại Agreement on Trade-Related Aspects of Intellectual Property Rights-TRIPs).
Mặc dù đây là nguyên tắc quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu mở rộng tự do hóa thương mại nhưng GATT/WTO vẫn công nhận một số các ngoại lệ sau đây:
Chế độ ưu đãi đặc biệt
Đây là chế độ ưu đãi đặc biệt về thuế quan truyền thống giữa một số nước thành viên hình thành trong thời kì chế độ thuộc địa, tồn tại trước khi hiệp định GATT 1947 ra đời. Chế độ ưu đãi đặc biệt về thuế quan là các đặc lợi về thuế quan mang tính phân biệt đối xử vì chỉ áp dụng riêng giữa một số nước với nhau hoặc trong một khu vực nhất định như chế độ ưu đãi của Khối thịnh vượng chung, chế độ ưu đãi của Khối liên hiệp Pháp, ưu đãi giữa Mỹ và Philipine…
Tuy mục tiêu của GATT 1947 là tự do hóa thương mại và chống phân biệt đối xử giữa các nước thành viên nhưng khi ra đời GATT 1947 đã không thể xóa bỏ ngay lập tức và toàn bộ các ưu đãi thuế quan này, cho nên nó đã buộc phải chấp nhận sự tồn tại của chế độ ưu đãi đặc biệt này như một ngoại lệ nhưng với các điều kiện sau:
Thứ nhất là các ưu đãi này chỉ giới hạn trong thuế quan đối với hàng nhập khẩu và không cho phép ưu đãi đặc biệt về thuế xuất khẩu, hạn chế xuất nhập khẩu và các hạng mục khác;
Thứ hai là ưu đãi đặc biệt này chỉ giới hạn giữa một số nước thành viên đã được chấp nhận và không được phép thiết lập các ưu đãi mới sau khi GATT 1947 ra đời (Khoản 2 Điều 1 và phụ lục liệt kê cụ thể các ưu đãi đặc biệt này);
Thứ ba là không cho phép tăng sự chênh lệch giữa thuế suất ưu đãi đặc biệt đã có khi thành lập GATT 1947 với thuế suất tối huệ quốc.
Hội nhập kinh tế khu vực
Theo quy định tại Điều 24 GATT 1994 thì nguyên tắc đối xử tối huệ quốc sẽ không áp dụng đối với khu vực mậu dịch tự do hoặc đồng minh thuế quan. Nói cách khác là hội nhập kinh tế khu vực cụ thể là đồng minh thuế quan và khu vực mậu dịch tự do được coi là ngoại lệ của nguyên tắc đối xử tối huệ quốc. Đồng minh thuế quan nghĩa là về mặt nguyên tắc các nước thành viên của nó không thiết lập các rào cản thương mại đối với thương mại của nhau, còn đối với thương mại ngoài khu vực thì áp dụng hệ thống thuế quan chung cũng như các quy định chung về thương mại. Khu vực mậu dịch tự do nghĩa là về nguyên tắc các nước thành viên của khu vực không thiết lập rào cản đối với thương mại của nhau nhưng mỗi nước thành viên duy trì hệ thống thuế quan và các quy định thương mại của riêng mình đối với thương mại của các nước ngoài khu vực (Khoản 8 Điều 24).
Về mặt lịch sử, khi GATT 1947 hình thành, đã tồn tại đồng minh thuế quan Benelux (gồm 3 nước Bỉ, Hà Lan và Lucxămbua). GATT 1947 thừa nhận rằng khu vực mậu dịch tự do và đồng minh thuế quan giữa các nước thành viên sẽ có thể thúc đẩy tự do hóa thương mại, tạo ra hiệu quả thương mại giữa các nước trong khối. Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là sự tự do thương mại giữa các nước trong khối mà thôi, cho nên mặt trái của việc thành lập khu vực mậu dịch tự do và đồng minh thuế quan là tạo ra rào cản phân biệt đối xử với các nước ngoài khối. Tùy theo mức độ của các rào cản này mà có thể nhập khẩu của các nước ngoài khối có hiệu suất cao lại bị thay thế bởi sản phẩm có hiệu suất thấp của các nhà sản xuất trong khối.
Chính vì những nhược điểm trên mà GATT 1947 đã đưa ra một số điều kiện sau đây đối với việc thành lập khu vực mậu dịch tự do hay đồng minh thuế quan.
Thứ nhất, thuế quan và các rào cản thương mại khác về mặt thực chất giữa các nước trong khu vực phải được dỡ bỏ hoàn toàn.
Thứ hai, thuế quan và các rào cản thương mại khác đối với các nước ngoài khu vực không được phép tăng hơn so với trước khi thành lập đồng minh thuế quan hay khu vực mậu dịch tự do; Thứ ba, đồng minh thuế quan, khu vực mậu dịch tự do phải được xây dựng theo lịch, trình hợp lí trong một Khoảng thời gian hợp lí.
Các biện pháp đặc biệt đối với các nước đang phát triển
Ngoại lệ tiếp theo của nguyên tắc đối xử tối huệ quốc là ưu đãi đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Biện pháp đối xử đặc biệt mà ngay từ khi thành lập GATT 1947 đã cho phép các nước đang phát triển áp dụng là hỗ trợ chính phủ đối với phát triển kinh tế. Biện pháp này được quy định tại Điều 18, theo đó, các nước thành viên đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế sẽ được tiến hành những hạn chế nhập khẩu cần thiết phục vụ cho phát triển kinh tế với một số điều kiện nhất định.
Trên đây là câu trả lời chi tiết của Luật sư PhamLaw đã theo quy định của pháp luật hiện nay. Nếu quý bạn đọc còn vướng mắc ở bất kỳ chỗ nào vui lòng kết nối đến số hotline để được tư vấn luật nhanh chóng nhất!
Xem thêm: