Hoạt động giám sát ngân hàng
Giám sát ngân hàng là hoạt động thiết yếu của Ngân hàng Nhà nước Trung ương ở bất kỳ quốc gia nào. Hoạt động giám sát ngân hàng góp phần bảo đảm và tăng cường pháp chế, kỷ luật nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng; đảm bảo an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng. Để hiểu rõ hơn về hoạt động giám sát ngân hàng, Quý bạn đọc có thể tham khảo bài viết dưới đây của Phamlaw.
CĂN CỨ PHÁP LÝ
Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010
Thông tư số 08/2017/TT-NHNN
NỘI DUNG TƯ VẤN
1. Giám sát ngân hàng là gì?
Hoạt động ngân hàng là một hoạt động có tính đặc thù, phức tạp cao. Vì vậy, hoạt động giám sát ngân hàng tồn tại như một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế và nhu cầu của xã hội.
Theo quy định tại khoản 12 điều 6 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010: “Giám sát ngân hàng là hoạt động của Ngân hàng Nhà nước trong việc thu thập, tổng hợp, phân tích thông tin về đối tượng giám sát ngân hàng thông qua hệ thống thông tin, báo cáo nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời rủi ro gây mất an toàn hoạt động ngân hàng, vi phạm quy định an toàn hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật có liên quan”
Giám sát ngân hàng là việc đơn vị thực hiện giám sát ngân hàng thu thập, tổng hợp, phân tích thông tin về đối tượng giám sát ngân hàng thông qua hệ thống thông tin, báo cáo nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các rủi ro gây mất an toàn hoạt động ngân hàng, vi phạm quy định an toàn hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Giám sát ngân hàng bao gồm giám sát ngân hàng đối với từng đối tượng giám sát ngân hàng (Giám sát an toàn vi mô) và giám sát ngân hàng đối với hệ thống, nhóm tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (Giám sát an toàn vĩ mô).
2. Đặc điểm của hoạt động giám sát
Hoạt động giám sát có những đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất, tính quyền lực nhà nước. Giám sát ngân hàng là một chức năng quản lý nhà nước, là công cụ đắc lực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý.
Thứ hai, tính khách quan. Bản chất của hoạt động giám sát là xem xét, đánh giá một cách khách quan việc thực hiện chính sách pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Tính khách quan được thể hiện ở chỗ mọi hoạt động giám sát đều dựa trên cơ sở pháp luật và tuân theo pháp luật. Bởi nếu hoạt động giám sát không dựa trên cơ sở pháp luật thì nó sẽ mất đi tính công bằng, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước
Thứ ba, tính độc lập tương đối. Điều này được thể hiện ở chỗ: các tổ chức thanh tra, giám sát được phép tự mình tổ chức các cuộc giám sát trên các lĩnh vực kinh tế – xã hội theo thẩm quyền pháp luật quy định. Trên cơ sở kết quả giám sát, ra các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý theo các quy định của pháp luật về giám sát, chịu trách nhiệm về kết quả giám sát của mình
Thứ tư, hoạt động giám sát luôn gắn với quản lý nhà nước. Trong mối quan hệ này, quản lý nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động giám sát ( thể hiện ở việc xác định đường lối, chủ trương, quy định thẩm quyền của Cơ quan thanh tra, giám sát; sử dụng các kết quả thông tin từ phía Cơ quan thanh tra, giám sát ). Nhờ có giám sát mà mục đích quản lý nhà nước được đảm bảo
Bên cạnh đó, hoạt động giám sát ngân hàng có những đặc điểm riêng như sau:
Thứ nhất, về chủ thể, hoạt động giám sát ngân hàng được thể hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mà cụ thể là Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Thứ hai, về đối tượng, đối tượng của hoạt động giám sát ngân hàng bao gồm các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Thứ ba, về nội dung, căn cứ theo khoản 1, điều 5, thông tư số 08/2017/TT-NHNN quy định về trình tự, thủ tục giám sát ngân hàng, hoạt động giám sát ngân hàng bao gồm: Thu thập, tổng hợp và xử lý tài liệu, thông tin, dữ liệu của đối tượng giám sát ngân hàng theo yêu cầu; xem xét, theo dõi tình hình chấp hành quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật có liên quan; việc thực hiện kết luận thanh tra và khuyến nghị, cảnh báo về giám sát ngân hàng của đối tượng giám sát ngân hàng.
3. Vai trò của hoạt động giám sát ngân hàng
Một là, đảm bảo tính lành mạnh của thị trường ngân hàng, tiền tệ, phục vụ cho công tác chống tham nhũng
Hai là, bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Ngân hàng thương mại là nơi tích trữ tiền tiết kiệm hàng đầu của công chúng. Trong khi đó, người gửi tiền lại thiếu kiến thức chuyên môn vê tài chính và thiếu thông tin cần thiết để đánh giá chính xác mức độ rủi ro của ngân hàng, do đó, việc giám sát hoạt động của các ngân hàng thương mại sẽ giúp cho cơ quan quản lý có được những thông tin cần thiết để xác định tình trạng tài chính của ngân hàng để từ đó có những giải pháp phù hợp bảo vệ quyền lợi người gửi tiền
Ba là, đây là công cụ hữu hiệu giúp Thống đốc Ngân hàng nhà nước trong việc quản lý hệ thống các ngân hàng thương mại, phát hiện, cảnh báo sớm các rủi ro gây mất an toàn hệ thống
Bốn là, thông qua hoạt động giám sát ngân hàng, ngân hàng nhà nước có căn cứ để xây dựng, hoàn thiện các quy định, hướng dẫn bảo đảm an toàn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại
4. Pháp luật điều chỉnh hoạt động giám sát ngân hàng
Pháp luật về hoạt động của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là tổng thể những quy định về hoạt động của Thanh tra Ngân hàng do Nhà nước ban hành và thừa nhận, theo đó xác định mối quan hệ giữa hoạt động của Thanh tra ngân hàng với các đối tượng thanh tra và các bên có liên quan.
Cụ thể, trong thông tư 08/2017/TT-NHNN, nội dung giám sát ngân hàng được quy định bao gồm:
– Thu thập, tổng hợp và xử lý các tài liệu, thông tin, dữ liệu của đối tượng giám sát ngân hàng theo yêu cầu giám sát; kết hợp giám sát an toàn toàn bộ hệ thống các tổ chức tín dụng với giám sát an toàn của từng tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
– Xem xét, theo dõi tình hình chấp hành các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật có liên quan; việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra và khuyến nghị, cảnh báo về giám sát ngân hàng;
– Phân tích, đánh giá thường xuyên tình hình tài chính, hoạt động, quản trị, điều hành và mức độ rủi ro của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, rủi ro mang tính hệ thống; thực hiện xếp hạng các tổ chức tín dụng hằng năm theo mức độ an toàn;
– Phát hiện, cảnh báo các yếu tố tác động, xu hướng biến động tiêu cực, rủi ro gây mất an toàn hoạt động đối với từng tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và hệ thống các tổ chức tín dụng; các rủi ro, nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng;
– Kiến nghị, đề xuất biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các rủi ro, vi phạm pháp luật của đối tượng giám sát ngân hàng theo quy định của pháp luật.
Hoạt động giám sát ngân hàng được thực hiện theo nguyên tắc tập trung thống nhất từ Trung ương đến địa phương, kết hợp chặt chẽ giữa giám sát việc chấp hành chính sách pháp luật về tiền tệ, ngân hàng với giám sát trên cơ sở rủi ro. Đến nay, nội dung giám sát không chỉ dừng ở việc giám sát việc tuân thủ pháp luật, chấp hành các tỷ lệ, giới hạn an toàn hoạt động mà còn chú trọng đánh giá, cảnh báo rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Bên cạnh giám sát vi mô đối với từng tổ chức tín dụng, các hệ thống giám sát an toàn vĩ mô từng bước được nghiên cứu, triển khai như mô hình dự báo tài chính FPM, bộ chỉ số lành mạnh tài chính FSIs và các mô hình kiểm tra sức chịu đựng của hệ thống và mô hình đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (DEA).
Trên đây là nội dung tư vấn của Phamlaw về khái niệm giám sát ngân hàng, nếu bạn còn vướng mắc hoặc muốn được hỗ trợ tư vấn, vui lòng kết nối đến tổng đài tư vấn của chúng tôi. Hỗ trợ dịch vụ qua các đầu số hotline 097 393 8866 hoặc 091 611 0508.
Xem thêm: